TRƯỚC LẠ SAU …VẪN
LẠ
Câu tục ngữ “trước lạ sau quen”
thực ra không phải là một câu nói cầu kì gì lắm cho cam. Chúng ta ai chẳng đã
nghe, đã sử dụng nó ít nhất một hai lần trong đời sống. Nhưng hình như câu tục
ngữ khá quen thuộc này đã bị quên đi, không còn được dùng nữa, ít nhất là tại
một số vùng ở Việt Nam.
Tiếng nói có đời sống của nó. Chữ
nghĩa ra đời, sống rồi chết đi là chuyện thường. Không thế thì sao lại gọi là
sinh ngữ. Cứ mở đọc lại truyện Kiều của Nguyễn Du mà coi. Tuy tác phẩm văn học
này được đọc đi đọc lại biết bao nhiêu lần bởi bao nhiêu thế hệ người Việt, vậy
mà vẫn xẩy ra nhiều trường hợp của những chữ biến mất hồi nào không hay:
…Gia tư nghỉ cũng thường
thường bậc trung…
Ngày nay còn ai dùng đại danh từ
“nghỉ” này nữa, kể cả ở chính quê hương của tác giả cũng không còn ai nghe thấy,
nói chi tới những nơi khác.
Hay chữ “rốn” và chữ “chỉn” cũng
thế:
…Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về
chỉn khôn…
Câu tục ngữ “trước lạ sau quen”
mãi gần đây tôi mới biết nó đã biến mất ở ngoài Bắc. Câu này tôi nhớ rất rõ là
nó được những người di cư cẩn thận để trong tay nải, va ly, hay những cái túi
hành lý, nhẩy lên tầu há mồm đem vào trong Nam. Nhưng ngay khi vào đến miền Nam
thì người Việt miền Nam ra đón Bắc kỳ di cư cũng nhanh nhảu trấn an phe Bắc kỳ
di cư bằng câu “trước lạ sau quen”. Thế là mọi người yên trí, không sợ
câu tục ngữ đó biến mất, rơi vào quên lãng nữa. Ở miền Nam, ai cũng dùng câu tục
ngữ "thân quen" đó một cách thoải mái nên người ta thấy không có lý do gì để tin
là nó sẽ biến mất đi được.
Tưởng chuyện gìn giữ cho ngôn ngữ
khỏi biến đi, khỏi mất đi thì người Việt miền nào cũng đều làm như thế cả. Nhưng
không hiểu vì sao đặc biệt câu tục ngữ “trước lạ sau quen” lại bị để cho
rơi rớt ở đâu rồi biến mất luôn.
Câu tục ngữ này không còn thấy được
dùng nữa, ít nhất thì cũng là ở miền Bắc, và nay, có thể sự biến mất ấy cũng
đang lan xuống cả miền Nam không biết chừng.
Nó biến mất nên cái gì bị coi là
“lạ” thì bị coi là “lạ” luôn. Không cho trở thành quen được. Tất cả,
người cũng như vật. Hễ lần đầu chưa quen biết, bị gọi là “lạ” thì mãi mãi,
vĩnh viễn bị coi là lạ. Không thể có chuyện dần dần, từ từ chuyển từ lạ sang
quen được. Dẫu cho chiều dài thời gian có là bao nhiêu đi chăng nữa.
Lạ thì cho lạ luôn. Một tuần, một
tháng, một năm, nhiều năm cũng kệ. Cứ lạ tiếp. Không thể “trước lạ sau quen”
như câu tục ngữ kia được.
Từ hơn một năm nay, người dân đánh
cá Việt Nam ở những tỉnh miền Trung đã nhiều lần bị những chiêc tầu võ trang tấn
công, làm đắm một số, gây hư hại nặng cho một số khác. Một số ngư dân thiệt mạng,
một số mất tích, một số bị bắt giữ làm con tin đòi tiền chuộc mạng. Báo chí
trong nước khi tường thật những việc làm ngang ngược, vi phạm chủ quyền lãnh hải
Việt Nam, bất chấp luật lệ quốc tế của những chiếc tầu võ trang trong khu vực
Hoàng Sa, Trường Sa và những vùng cận duyên của Việt Nam đều cho biết đó là
những chiếc “tầu lạ”. Trong khi các hình ảnh chụp được tại hiện trường
đều cho thấy rõ quốc tịch của những chiếc tầu đó qua quốc kỳ và những hàng chữ
viết rõ trên tầu.
Thực ra những hành động ngang ngược
của những chiếc tầu hải giám đó đã diễn ra từ lâu, từ mấy năm nay chứ đâu phải
chỉ mới từ hơn một năm trở lại đây. Nhưng rõ ràng là sau một thời gian dài như
thế, những chiếc tầu hải giám đó vẫn còn bị coi là tầu lạ. Vụ đụng chạm mới nhất
chỉ vừa diễn ra hồi giữa tháng 10. Báo chí trong nước vẫn gọi chúng là tầu “lạ”.
Người ta không chờ đợi là những
người có quyền ở Việt Nam thay đổi và bỗng nhiên nhớ lại câu tục ngữ “trước
lạ sau quen” và nói lên sự “quen biết” với bọn hải tặc ấy.
Nhưng “lạ” cả mấy năm rồi mà
vẫn chưa “quen” được nhau thì có hơi chậm.
Tán gái mà chậm như thế thì cả làng
cười cho đấy! Bác Hồ được giới thiệu chị Nông thị Xuân chỉ vài tháng sau là có
thằng cu Nguyễn Tất Trung ngay đó thôi. Hết “lạ” ngay lập tức đó thôi!
Thế rồi mấy cái tầu ngầm kilo mua
của Nga cũng là đống sắt vụn như tầu Vinashin cả hay sao mà vẫn chỉ nằm chơi ở
Cam Ranh vậy? Không dám rời bến chạy ra hỏi giấy mấy cái tầu lạ ăn hiếp tầu đánh
cá của ngư dân Việt Nam thì mua về làm quái gì?
Vì câu “trước lạ sau quen”
đã biến mất từ hồi nào rồi nên những cái tầu ấy vẫn là tầu “lạ” là như
vậy.
Bố khỉ!
ÁO DÀI
Thực ra thì cái áo dài chẳng phải
là của riêng một ai cả. Nó từ cái áo tứ thân, ngũ thân cải tiến mà ra. Nó đã ở
trong bài Lý Cây Đa từ cả môt trăm, hai trăm năm trước:
…vải nâu may áo kìa áo ối a năm tà
rằng tôi lý ối a viền năm tà
ai đem ối a ối tang tình rằng
cho cô nàng mặc xem hội cái đêm trăng rằm
rằng cho tôi lý ối a là sáng trăng…
rằng tôi lý ối a viền năm tà
ai đem ối a ối tang tình rằng
cho cô nàng mặc xem hội cái đêm trăng rằm
rằng cho tôi lý ối a là sáng trăng…
Nhưng mãi tới khi có bàn tay của
họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn và báo Ngày Nay thì
chiếc áo dài mới thoát ra khỏi những rườm rà cũ để trở nên thành thị và tân thời,
mới mẻ hơn.
Sau năm 1954, những chiếc áo dài
của phụ nữ Việt lại qua những đổi thay khác nữa ở cổ áo, tay, vai, eo và tà của
áo. Trong những năm cuối 60 và đầu thập niên 70, phụ nữ Việt Nam đẹp hẳn lên
cũng nhờ những chiếc áo dài. Cái cổ áo lúc cao, lúc thấp, lúc thành
décolleté, cái tay được nối liền với với cổ theo kiểu raglan, cái eo
lúc bó, lúc không…đổi thay không ngừng.
Nhưng rồi tất cả đều ngưng lại sau
biến cố tháng 4 năm 1975 khi nón cối dép râu tiến vào Sài Gòn. Áo dài bị coi là
kiểu thời trang “đồi trụy”, và mặc nhiên bị cấm. Dép râu nón cối chặn những
người mặc áo dài ở ngoài đường lên lớp về cách ăn mặc, về thời trang, về vẻ đẹp
cách mạng…Vạt trước, vạt sau bị cắt, mầu sắc tươi tắn không còn được cho phép ra
đường nữa. Những chiếc áo dài của Sài Gòn bị dấu kín trong tủ áo. Nó chịu chung
số phận với những chiếc “áo mầu tung gió chơi vơi” của Hướng Về Hà Nội
trong ca khúc của Hoàng Dương, nó bị xếp lại, không bao giờ được đem ra mặc nữa.
Bọn dép râu nón cối đặt ra những
tiêu chuẩn về đẹp mới: đẹp cách mạng, bưng biền. Phải nón tai bèo, khăn rằn, áo
bá ba đen, dép râu…
Không phải áo bà ba không đẹp. Áo
bà ba đẹp chứ. Rất đẹp là đằng khác nữa. Cứ nhìn Hồng Đào, Mỹ Huyền … mặc bà ba
coi có đẹp điên người lên không nào.
Nhưng cái trò ghen ghét ấy chỉ mấy
năm sau thì cũng hết. Chẳng lẽ mấy em du kích, chiến sĩ gái (như trong tiểu
thuyết của Dương Thu Hương) sau bao nhiêu năm bưng biền, đường mòn Trường Sơn
tiến vào Sài Gòn thấy phụ nữ Sài Gòn quần áo tối tân như thế rồi chán cách mạng
thì sao. Nên phải dẹp những chiếc áo dài Sài Gòn cho chị em đỡ tủi. Một thời
gian sau, nón cối dép râu bỗng thấy áo dài Sài Gòn coi cũng … ngộ. Thế là dẹp
cha nó thời trang bưng biền lại. Kiếm cái sì líp mặc vào cho đít có …gân chơi.
Kiếm thêm cái sú chiêng, đẩy cho giàn mướp cao lên một chút. Rồi cái áo dài đồi
trụy khoác vào. Đôi giầy cao gót thay cho đôi dép Bình Trị Thiên. Et violà…
coi đặng quá đi chớ.
Và từ đó, vô sản lôi áo dài ra diện
lia chia, không còn thấy đồi trụy nữa. Hay là thấy đồi trụy cũng đẹp, mà lại còn
đẹp hơn bưng biền nhiều.
Và mấy em nhà quê đua nhau mặc áo
dài. Vợ Ba Ếch trong chuyến đi Ấn Độ mới đây cũng lôi áo dài ra mặc. Cũng tay
raglan, cũng vẽ hoa hoét vạt trước, vạt sau. Lại còn đeo chuỗi hạt trai nữa
mới đau lòng các chị du kích, dân công đường mòn Hồ Chí Minh thuở nào chứ.
Mẹ kiếp cong đít lên vác đạn mất
cha nó tuổi trẻ để bây giờ con nạ dòng bầy đặt mốt miếc, kiểu cọ, quần quần, áo
áo bắt chước hệt như bọn Ngụy ngày xưa thì có điên người lên không chứ!
Mấy chị thế nào chẳng nghe văng
vẳng bên tai câu nói của tổng thống Ngụy: Đừng tin những gì bon chó dại nói, hãy
nhìn kỹ những gì bọn chó dại làm.
Nhưng đến lúc nhìn được những điều
chúng làm thì muộn bố nó rồi còn gì nữa.
Có khác gì đoạn cuối của cuốn
Animal Farm của George Orwell khi lũ gia súc ngó vào phòng tiệc và không cách
nào phân biệt được đâu là mấy con heo, đâu là bọn người độc ác từng bóc lột bọn
gia súc từ bao nhiêu năm nay.
Vì bọn
heo đã biến thành những con vật độc ác hệt như bọn trại chủ mà chúng đã đánh đổ
trước kia mất rồi. Thằng mặt chó chích đít cũng thế.