August 26, 2010

August 27, 2010

Ngày 23 tháng 8 năm 2010

Bn ta,

Cuối tuần qua, ở mục Personal Plus của tờ Washington Post, tôi đọc được một lời rao tìm bạn mà tôi nghĩ là không ai có thể viết hay hơn được. Tôi tin chắc người phụ nữ đăng đoạn lời rao đó sẽ nhận được vài ba chục lá thư xin làm quen là ít.

Ngắn, gọn, không mầu mè, đi thẳng vào vấn đề, đọc xong thì hiểu ngay, không khoe khoang nào là nhà văn nữ, là từng viết diễn văn cho tòa Bạch Ốc, là thông minh, là tài chính ổn định... như mấy đoạn lời rao bên cạnh.

Nàng viết như thế này: "The woman you should have married. ISO of warmhearted, bright DWM, 50-60..."

Nàng không tự nhận là giống người mẫu của Victoria's Secret, không bomb shell, sexy... Nàng chỉ nhận nàng là người phụ nữ mà bạn đáng lẽ đã phải lấy làm vợ. Nàng kiếm một người đàn ông thông minh, tính tình đôn hậu, da trắng, đã chấm dứt những liên hệ pháp lý của một đời sống hôn nhân trước. Nói để bạn biết ngay ở đây: điều kiện DWM (Divorced White Male) không có bạn ở trong.

The woman you should have married... Người đàn ông nào mà chẳng có những lúc thầm kín nghĩ về một, hai người phụ nữ như thế.

Những người phụ nữ như vừa mới bước ra khỏi thơ của Ðinh Hùng, của Nguyên Sa, vẫn còn "gói mây trong áo", vẫn còn "để nắng thu vàng giữa lối đi", vẫn còn "gió mùa thu cuốn bao dư vị", vẫn còn thấy "từ biệt hoàng hôn trong mắt em / tôi đi tìm những phố không đèn", vẫn còn "... dầm mưa lén bước về / áo trùng hơi thở, mặt sầu che..."

Ðáng lẽ. Phải chi. Giá mà. Lý ra. Nếu... thì bây giờ mình như thế nào, trong lúc không có mặt của người... nữ chủ nhiệm đều sẽ nói như thế.

Người đăng lời rao dùng should have và quá khứ phân từ của động từ to marry để nói về một chuyện đã không xẩy ra nhưng đáng lẽ đã phải xẩy ra. Không dùng might have, would have, hay could have, mà should have cho mạnh. Might have là lẽ ra đã có thể... Không có chuyện có thể ở đây. Would have hay could have là lẽ ra đã... Chưa đủ mạnh. Should have married... đáng lẽ đã phải cưới làm vợ. Mạnh hơn nhiều. Chuyện cưới nàng làm vợ đã có biết bao nhiêu là lý do rất vững đi kèm. Nhưng chuyện đó đã không xẩy ra. Thời cuộc? Số mệnh? Ðời sống?

Ðáng lý ra đã phải cưới làm vợ. The woman you should have married... Có người chỉ đưa ra được có một cái tên. Có người danh sách dài hơn trong cái danh sách ấy.

Ðó là những ai? Là cái má lúm đồng tiền? Là đôi mắt giết người, là cái cằm chẻ, là cái răng khểnh, là cái lưng mặc áo dài rất đẹp, là cái kiểu ngồi Solex, là mùa thi năm tú tài 2 năm 1962, là căn nhà trọ ở Kilburn Parade, là mùa đông ở Christchurch, New Zealand, là cái bếp ở căn apartment bên cạnh đại học Victoria, là quán cà phê ở lối lên cable car, là bài thơ Ðường đọc ở thư viện Pasadena, là cái croissant cùng ăn trong bãi đậu xe?

Người rao trên báo là người ấy? Là cái địa chỉ ở San Diego, là cái số điện thoại ở Arcadia? Làm thế nào được. Làm sao là tất cả những người ấy.

Lời rao trên báo của nàng thoạt dầu đọc lên thì nghe thật hay, nhưng đọc lại, và duyệt qua lại những sự quen biết cũ, cập nhật hóa chúng lên một chút, kéo cho chúng thêm hai mươi, ba mươi năm nữa, đặt chúng vào những khung cảnh mới, nhuộm cho chúng chút "mầu thời gian", đừng can thiệp vào sự kéo tới của mấy chục năm trên mái tóc, ở những khóe mắt, khóe miệng, có thể người ta thấy lời rao của nàng đã mất đi rất nhiều appétit.

Thí dụ đó là người khuyên đừng gặp lại để thấy ba cái áo dài cũ... chập lại mặc cũng không vừa nữa? Là người cảnh cáo rằng nay là gái 5 con muốn... lôi phắt đi chôn chứ không còn mòn con mắt nữa? Là người đàn bà nhận không ra ở phi trường O'Hare cách đây mấy năm? Là người mà ông chồng (đương kim) than thở rằng vì nàng mà ông đã tàn một đời trai từ hơn hai chục năm nay?

Henri Millon de Montherlant, một tiểu thuyết gia Pháp (1896-1972) có lần viết rằng khi bạn đến tuổi 50, nhìn lại những người phụ nữ quen biết trong đời, thì bạn bỗng thấy họ cũng thường thôi, chẳng có gì đáng để nhớ cả.

Cho nên lời rao của nàng có thể rất hấp dẫn với một số người, nhưng có thể không đối với những người khác. Ít nhất là không, đối vói Montherlant và những người đọc ông ta.

Ðôi tình nhân trẻ dưới trăng thề thốt với nhau rằng không lấy được nhau thì họ chết. Ðịnh mệnh độc ác không cho họ lấy nhau. Họ giữ đúng lời nguyền, nửa thế kỷ sau, họ qua đời, người nọ trước người kia khoảng vài năm.

Không biết có bao giờ họ nghĩ tới nhau được như đoạn lời rao kia không?

Nhưng hãy tưởng tượng lời rao đó là của một người đàn ông thì tôi sợ sự tốt đẹp không bao giờ có được ở trong đầu của người đọc được quá vài ba phút. Cứ tưởng tượng chàng tuổi tác ngoài nửa thế kỷ, mái tóc muối đang thắng tiêu, cặp mắt kính dầy như hai cái đít chai coca, cái bụng bia hai ba người ôm không xuể, ăn nói vô duyên, gàn dở, vô tích sự vào hạng nhất thế giới.

Ðẩy người đàn ông này ra với người đàn bà mà đáng lẽ ra chàng đã phải cưới làm vợ... Biết đâu họ chẳng hợp nhau như... cái cắm điện và cái outlet trên tường?

Mà như vậy thì đoạn lời rao vẫn là có lý nặng chứ có sai gì đâu... Những cái vung méo vẫn tìm được những cái nồi méo chứ. Giờ này làm gì còn vung tròn với nồi tròn nữa.


Ngày 24 tháng 8 năm 2010

Bn ta,

Luật pháp Mỹ hầu như luôn luôn thiên vị phụ nữ trong những tranh tụng tại tòa về vấn đề con cái khi cuộc hôn nhân chấm dứt. Tình trạng này tuy nay đã được cải thiện đôi chút, nghĩa là đã có thêm nhiều người đàn ông được tòa cho giữ con, nhưng hầu như chỉ những khi người mẹ làm những công việc thiếu đạo đức hay nếu những đứa con ở với người mẹ, an toàn đời sống của chúng bị đe dọa thì người mẹ mới bị tòa không cho giữ con.

Nhưng tòa án không phải chỉ thiên vị phụ nữ trong những trường hợp tranh tụng liên quan đến con cái, mà luôn cả trong các trường hợp khác hơn là con cái, tòa cũng vẫn thiên vị phụ nữ, và người đàn ông thường là phía bị thiệt.

Thí dụ trong những tranh chấp đòi quyền giữ những con chó khi cuộc hôn nhân chấm dứt, các tòa án ở Mỹ cũng vẫn nhẹ nhàng hơn với phụ nữ. Theo một con số thống kê thì cứ 100 vụ tranh chấp giữa các cặp có nuôi chó, thì tòa giao cho phụ nữ giữ con chó của hai người tới 81 vụ.

Chỉ có 19% những người đàn ông được tòa cho giữ chó.

Chuyện cho ai giữ chó không ngừng ở quyết định cho con chó theo người vợ hay người chồng về nhà. Chuyện cho giữ chó còn kéo theo nhiều chuyện khác.

Thí dụ quyền thăm viếng, trách nhiệm cấp dưỡng những con chó.

Quyền thăm viếng có thể bị hạn chế nếu phía được giữ nêu lý do phía bên kia bạo hành con chó, không cho nó làm ướt cột đèn, gây ô nhiễm cho sân cỏ chẳng hạn. Nếu phía bên kia có vài ba biện pháp đối với mấy con chó mất dậy, vô giáo dục... bằng cách xích lại, nhốt vào chuồng chó, khóa mõm, gửi đi học ở trường dậy vâng lời, hét vào tai chúng tên một loại cây giống như cây bạc hà, hình như là cây húng, để khủng bố tinh thần chúng, thì phía bên được giữ chó có thể nại những chuyện đó ra để xin tòa không cho người đàn ông đến thăm mấy con chó đẻ đó nữa.

Thế rồi thỉnh thoảng, phía được giữ chó lại lôi phía bên kia ra tòa đòi tăng tiền cấp dưỡng để đuổi kịp những gia tăng của các loại thực phẩm chó. Những cách hành hạ phía không được giữ chó nhiều hay ít tùy thuộc thêm vào tài sáng tạo của các luật sư của người vợ.

Những người đàn ông ở nước Mỹ khổ vô cùng.

Ðó là chuyện chó.

Tại tòa, nếu người đàn bà Mỹ được tòa thiên vị trong những tranh chấp liên quan đến con chó, thì những tranh chấp liên quan đến những con mèo cũng vậy. 81% phụ nữ ly dị chồng được giữ chó thì chắc chắn cũng phải bằng ấy phần trăm được giữ mèo.

Người đàn ông Mỹ phải nuôi chó của vợ thế nào thì cũng sẽ phải nuôi mèo của vợ như thế. Người vợ không những được nuôi mèo, có mèo mà người đàn ông lại còn phải cấp dưỡng cho mèo của người vợ cũ. Không có chuyện bình đẳng trong những vụ tranh tụng dính dáng tới những con vật nuôi trong nhà. Phụ nữ gần như bao giờ cũng thắng tại tòa án.

Và nếu nói đến những con vật nuôi trong nhà thì ngoài chó và mèo, còn cả những con chim nữa. Trường hợp tranh tụng về những con chim thì cũng không khác những vụ tranh tụng liên quan đến mèo và chó bao nhiêu.

Chắc chắn đa số phụ nữ Mỹ tại những phiên tòa ly dị sẽ lại được tòa cho giữ những con chim mà trước đó người vợ và người chồng đã cùng nuôi.

Rồi những người đàn bà được giữ chim cũng sẽ lại đưa ra những đòi hỏi và những điều kiện tương tự như những người được giữ chó hay giữ mèo vậy. Cũng những vấn đề của chuyện thăm viếng, cấp dưỡng vân vân.

Phía không được giữ chim phải trả tiền cho phía được giữ chim. Nhiều người đàn ông Mỹ ở tuổi ngoài bốn mươi, năm mươi sau những năm với biết bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống hôn nhân, một ngày bừng mắt dậy, thì mất con mất cái, mất nhà, mất cửa, mất chó, mất mèo, mất chim... khổ không nói sao cho hết.

Trong khi đó, phụ nữ Mỹ vẫn tiếp tục đòi bình đẳng với đàn ông. Chưa bình đẳng thì đã như hôm nay, đến lúc bình đẳng rồi thì còn như thế nào nữa.

Ðọc cái thống kê ai cũng phải sợ phát sốt phát rét lên là thế.


Ngày 25 tháng 8 năm 2010

Bn ta,

Sau khi xuất hiện ở cuối hai câu thơ của Nguyễn Khuyến, và có thể trong một lần khác với Hồ Xuân Hương, nó biệt tích luôn. Dường như không ai còn thấy nó ở trong một bài thơ nào khác. Nó là chữ "teo" trong "chiếc thuyền câu bé tẻo teo", trong "ngõ trúc quanh co khách vắng teo" ở hai bài thơ Nôm của cụ Nguyễn.

Lý do có thể là dùng nó rất khó mà hay hơn được mấy lần chúng ta đã thấy như ở trên. Bài Thu Ðiếu của Nguyễn Khuyến nhờ chữ "teo" mà hay hơn rất nhiều. Chiếc thuyền không chỉ nhỏ, chỉ bé, mà "bé tẻo teo". Nghĩa là bé lắm. Chiếc thuyền trên mặt nước ao mùa thu se lạnh, như nhỏ thêm, như bé thêm nữa khiến nỗi cô đơn của người ngồi trên thuyền cũng tăng theo. "Vắng teo" cũng thế. Là vắng lắm. Cái ngõ chỉ xào xạc những chiếc lá trúc rơi rụng trên đất, không một tiếng chân người. Vừa vắng, lại vừa lặng. Ðó là "vắng teo". Không ai dám dùng lại nó nếu không thể dùng hay hơn là Nguyễn Khuyến.

Từ đó, chữ "teo" này đã được mặc cho những cái nghĩa rất mới và đi trên bao nhiêu con đường khác. Vậy mà nó bị các nhà làm tự điển đối xử rất bất công. Tự điển của Lê văn Ðức in năm 1970 có khá nhiều tiếng mới, cũng chỉ ghi những nghĩa nguyên thủy của nó như ở trang 1377.

"Teo" được định nghĩa là nhót lại, co rút lại, còn rất nhỏ khi là tĩnh từ. Khi là động từ, chữ này được nhà làm tự điển ghi là càng ngày càng nhỏ lại. Cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt in năm 1996 của Hà Nội (trang 872) cũng không khá hơn, chỉ toàn những nghĩa cũ của chữ "teo".

Cả hai cuốn đều không định nghĩa động từ "teo" là sợ, là hãi, là rét, là ngán, là nhát... như những nghĩa mới mà chúng ta đặt thêm cho nó trong những năm 60 ở Việt Nam. Sau một đời sống năm năm, mười năm, nó xứng đáng được ghi vào tự điển. Vậy mà nó vẫn bị bỏ ở ngoài mặc dù nó là một chữ rất hay, dùng ở đâu và lúc nào cũng được.

"Teo" mang nghĩa mới này khi nó được dùng làm động từ. Nó không hề làm cho chủ từ nhỏ đi, bé lại. Thí dụ khi nói "tôi teo quá" chẳng hạn.

Kích thước vật lý của tôi vẫn là 5 feet 9, nặng 170 cân Anh. Nói xong câu "tôi teo quá", chiều cao và trọng lượng của tôi vẫn không có gì thay đổi. Nỗ lực nhịn ăn cho xuống bớt vài chục cân Anh vẫn tiếp tục được duy trì và vẫn tiếp tục không đem lại kết quả.

"Teo" ở đây là sợ. Nhưng tại sao nó lại có cái nghĩa mới như thế?

Tôi nghĩ là nó được dựa trên một đổi thay về kích thước mà không phải lúc nào cũng thấy được, hay cũng có thể nói là không phải lúc nào cũng cho người khác thấy được.

Và đúng lúc đó, thì chữ "teo" hiện ra. Chỉ có nó mới nói được hết nỗi hoảng sợ kinh hồn mà người ta đang phải đối đầu. "Teo" quá là sợ quá, là hãi hùng quá, là kinh hoàng quá.

Khi sợ, khi bị khủng bố, khi bị đe dọa gây nguy hại cho đời sống, cho cơ thể, thì nỗi hoảng sợ đó lập tức đưa tới những đổi thay vật lý. Sự bình tĩnh mất đi, ảnh hưởng tới tiếng nói. Cơ thể co quắp lại. các bộ phận cơ thể nếu có thể giảm bớt được diện tích, thể tích, thì sẽ nhỏ đi.

Ruột gan teo tóp lại đã đành, cả một số bộ phận khác cũng teo nhỏ lại. Những đổi thay đó không do đầu óc sai khiến, mà la những phản ứng mà cơ thể không điều khiển được. Mồ hôi toát ra, bay hơi, cơ thể hạ giảm nhiệt độ, thân nhiệt xuống thấp hơn. Lập tức một bộ phận được kéo sát lên cho nằm sát hơn vào cơ thể để nhận lấy nhiệt độ của cơ thể giữ cho khỏi bị lạnh. Bên cạnh nó, một bộ phận khác cũng thay đổi kích thước, không còn hùng mạnh như trước nữa.

Teo. Teo lại. Sợ teo người (?) luôn. Teo quá.

Nhưng tiếng Anh hình như chưa có động từ tương tự như "teo" của chúng ta. Hay chúng ta tặng họ một động từ, món quà nhỏ chúng ta, chút đóng góp cho cái ngôn ngữ cưu mang chúng ta từ vài chục năm nay, như to kowtow là khấu đầu của người Trung Hoa; như bungalow là căn nhà gỗ của người Ấn Ðộ; như dinkum của người thổ dân Úc... Thí dụ to kell chẳng hạn. To kell là... teo thì nghe cũng được đấy chứ.

Còn "teo" thì là gì nếu xin được cụ Lê Văn Ðức cho thêm vào từ điển của cụ?

Tại sao không đề nghị một định nghĩa cho nó? Chẳng hạn "teo" là... cheo tim có được không nhỉ? Có điều ông Clinton thì có thể teo chứ bà Clinton thì không thể nói là... teo được. Phụ nữ oai kinh khủng, họ không teo bao giờ hết. Ðàn ông sợ họ là phải.


Ngày 26 tháng 8 năm 2010

Bn ta,

Mục RSVP do Letitia Baldrige phụ trách xuất hiện mỗi tuần một lần, được rất nhiều báo ở Hoa Kỳ đăng lại, trong đó, người viết trả lời và cố vấn các độc giả về đủ mọi vấn đề, về đủ mọi lãnh vực, đưa ra đủ mọi giải pháp cho đủ mọi thắc mắc. Nhưng vì bao biện quá nhiều lãnh thổ như thế, thỉnh thoảng Letitia Baldrige cũng lảng xẹt.

Thí dụ như hôm nay chẳng hạn.

Một độc giả viết cho RSVP nói rằng một nữ đồng nghiệp của bà/cô/ông có một thứ mùi khủng khiếp làm cả sở kinh hoàng. Ai ai cũng khổ vì cái mùi (body odor) từ cơ thể của nữ đồng nghiệp này phát ra, nhưng không một người nào có đủ can đảm để hành động. Người viết xin được cố vấn phải làm gì vì cả sở đã hết chịu nổi.

Letitia Baldrige đề nghị người độc giả viết thư nhờ phòng nhân viên nói hộ, nếu không thì cũng có thể nhờ một cấp chỉ huy làm công việc đó. Khi thảo luận với đương sự, nên có sẵn một vài thứ deodorants để làm quà cho nàng.

Như vậy là tầm bậy.

Trước hết phải tìm hiểu người viết lá thư ấy là đàn ông hay đàn bà, tương quan giữa người viết với đương sự như thế nào, nhan sắc của người viết (nếu người viết thư là phụ nữ) so sánh với nhan sắc của đương sự ra sao, có yếu tố ghen ghét, hận thù ở trong không... vân vân.

Chỉ sau khi có được những chi tiết như thế thì mới trả lời được. Chưa chi đã trả lời ngay là chỉ có hố. Letitia Baldrige hố nặng.

Ngoại trừ trường hợp lá gan không sản xuất được enzyme FMO3, enzyme có khả năng vô hiệu hóa protein có tên là trimethylamine ở một số người, mà Shakespeare mô tả trong kịch The Tempest là một thứ mùi rất xưa như mùi cá (a very ancient and fish-like smell) thì cái mùi tự nhiên của người đồng nghiệp không cách gì có thể dễ sợ như thế, nếu nó (người đồng nghiệp) không đẹp hơn, không mặc quần áo đắt tiền hơn, không trẻ hơn, không có kép ngon lành hơn người viết thư.

Những thứ mùi của cơ thể thực ra là những mùi thơm nhất, đáng quí nhất, nhưng chúng ta đã bị xã hội và các hãng sản xuất nước hoa tuyên truyền, làm cho chúng ta tin đó là những mùi cần phải dẹp đi, đánh át đi, ngụy trang đi đằng sau những thứ son phấn, nước hoa, aftershave, deodorant...

Ðó là những cái mùi hết sức hấp dẫn mà tổ tiên của chúng ta không bao giờ ghê sợ, trái lại, còn yêu thích ghê gớm là đằng khác. Những cái mùi đó chỉ xuất hiện khi người ta bắt đầu trưởng thành về mặt tính dục. Trẻ nhỏ không hề có những mùi đó. ở các loài vật hạ đẳng, những thứ mùi đó chỉ xuất hiện vào một mùa nào đó để chuyện tìm nhau cho dễ. Hết mùa yêu nhau, mùi đó lại biến mất. Nhưng loài người, thì những mùi đó còn mãi.

Nó là cái mùi mà một ông vua Việt Nam mong giữ lại được trong chiếc áo cũ của người cung phi yêu dấu đã ra đi. Nó là mùi của nàng, của "O Bằng", không bao giờ là mùi hương nhu, mùi bồ kếp hết. Muốn có mùi hương nhu hay mùi bồ kếp thì ra ngồi ở gốc cây hương nhu, cây bồ kếp cho nó mát chứ gấp cái áo cũ của nàng lại làm quái gì cho nó chật cả hoàng cung.

Trước khi biết được những chi tiết quan trọng về nàng, Letitia Baldrige đã cố vấn sắc đẹp ngay, nào là nói cho khéo, nào là mang theo quà vài chai deodorant cho nàng xức cho bõ những ngày cơ cực...

Letitia Baldrige có thể chưa bao giờ ngồi cạnh một đồng nghiệp lâu lâu cao hứng không biết làm gì, tung ra một quả võ khí hóa học tục gọi là nước hoa, cho các đồng nghiệp được dùng ké nước hoa miễn phí mấy tiếng đồng hồ để về nhà lại khổ vì những lời cật vấn về nguồn gốc của cái mùi nước hoa ghê rợn đó nên mới đề nghị tặng quà cho nàng vài thứ deodorant. Letitia Baldrige cũng có thể chưa bao giờ phải ngồi trong một căn phòng kín với một diện tích chỉ hơn cái xe bus một chút với những mùi nước hoa khác nhau hòa trộn cùng với những tinh thể mỡ, dầu ăn bay từ mấy món xào nấu ở nhà quện vào những thớ vải trên áo vài ba đồng nghiệp.

Trong những trường hợp như thế, thì hãy nghĩ tới những biện pháp can thiệp, dẫu cho tế nhị và ngoại giao cách mấy đi chăng nữa, thì chuyện mất lòng nhất định vẫn xẩy ra như thường. Chúng ta sống trong một xã hội với trình độ văn minh rất cao. Vì lẽ đó, bệnh hơi thở hôi là bệnh rất khó chữa. Khó chữa vì không biết mà chữa. Không biết vì không ai nỡ nói thật với ngồi có hơi thở làm héo vườn hoa hồng, làm chết cá ao anh mỗi khi đi qua.

Cách hay nhất là không nói gì hết, Biện pháp phòng chống là đi ra tiệm Army Surplus bán quần áo nhà binh thặng dư kiếm mua lấy cái mặt nạ hơi độc đem vào sở, khi nào chai-nước-hoa-biết-đi xẹt ngang qua, thì lôi ra đeo vào.

Chẳng lẽ lại hét lên rằng nước hoa... ai vừa mũi người ấy thì kỳ quá.

Phải chi nó là mùi Guerlain hay Donna Karan thì cũng được đi.

Nếu không, cứ để tự nhiên có phải là nhân quyền của đồng nghiệp không bị vi phạm không nào.


ANH NGỮ TRONG ÐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


(Bài số 89)

Bản ghi chép do Quỳnh Anh thực hiện. Bài học số 88 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 10 năm 2010.

QUỲNH ANH:

Ðây là chương trình Anh Ngữ Trong Ðời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy, và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.

Chương trình Anh Ngữ Trong Ðời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.

Và đây là câu hỏi của QA. Tuần qua, ở nhà, QA có một party nhỏ cho con gái lớn sắp trở lại trường. Tiệc đã bắt đầu thì hai người bạn của con gái QA xuất hiện. QA muốn nói với hai người bạn này rằng ở lại chơi, càng đông càng vui chứ có sao đâu. QA muốn nói như vậy để mời hai người bạn của con ở lại nhưng không biết nói thế nào cho đúng. QA biết là có một cách nói giản dị lắm, không rườm rà như QA rằng PLEASE STAY. MORE PEOPLE ARE GOOD. Xin anh cho biết nói thế nào cho gọn mà đầy đủ ý nghĩa.

LÃM THÚY

Thúy biết. Ðây cũng là câu Thúy học lóm của mấy đứa con: THE MORE THE MERRIER, nghĩa là càng nhiều người hơn thì càng vui hơn, càng đông càng vui có phải không thầy?

BBT

Ðúng vậy. Ðó là cách nói giản dị hơn cách nói của QA nhiều mà nghe Ăng lê hơn. Ðây là một cách nói rất thường thấy trong khi chúng ta nói chuyện hàng ngày.

Chúng ta dùng cách so sánh hơn (COMPARATIVE) cho cả hai vế: THE MORE và THE BETTER. Chúng ta cũng thường gặp phải những trường hợp cần dùng lối nói này. Thí dụ càng sớm càng tốt, càng ít càng tốt. QA nó thử càng sớm càng tốt bằng tiếng Anh coi.

QA

THE SOONER THE BETTER.

BBT

Trong trường hợp nào cô sẽ nói như thế?

QA

Thí dụ QA muốn người bán nhà trả lời QA sớm, QA có thể nói thế này: I ASKED THE OWNER TO GIVE US THE ANSWER THE SOONER THE BETTER.

BBT

Hay lắm. Thế còn Lãm Thúy?

LÃM THÚY

THE LAWYER TOLD ME TO SAY THE LESSER THE BETTER.

BBT

QA nói thử câu này bằng tiếng Anh coi: Càng biết ông ấy, tôi càng không hiểu gì về ông ấy.

QA

THE MORE I KNOW HIM, THE LESS I UNDERSTAND HIM.

BBT

Thúy nói càng gặp bà ấy tôi càng quí bà ấy hơn.

LÃM THÚY

THE MORE I SEE HER, THE MORE I LIKE HER.

BBT

Ðã lâu lắm rồi, tại một tiệm bán chó mèo ở Washington DC, tôi thấy một tấm poster có hàng chữ mà tôi dịch tạm sang tiếng Việt như thế này: càng biết người ta, tôi càng yêu con chó của tôi hơn. QA thử dịch ngược trở lại tiếng Anh coi.

QA

THE MORE I KNOW PEOPLE, THE MORE I LOVE MY DOG. QA nhớ tổng thống Harry Truman có nói rằng ở Washington, muốn có bạn thì kiếm con chó mang về nuôi. Bộ người ở Washington dễ sợ lắm hay sao?

BBT

Thì cô cứ xem ông Bush và ông Obama thì thấy rõ. Tuổi trẻ bao lăm mà đầu như một câu trong bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác. Chúng ta có thể thay thế MORE , LESS với SOONER, LESSER, FEWER, EARLIER, LATER, FASTER, QUICKER, SLOWER … cần nhớ tất cả đều trong thể so sánh hơn (COMPARATIVE) là được.

Lãm Thúy cho nghe hai câu và QA cho nghe hai thí dụ trước khi chúng ta chuyển sang một đề tài khác.

LÃM THÚY

THE LESSER WE SEE THEM THE BETTER.

THE SLOWER YOU DRIVE, THE SAFER IT IS.

QA

THE FASTER THE CAR RUNS, THE MORE GASOLINE IT BURNS.

THE EARLIER WE GO TO BED, THE MORE SLEEP WE GET.

BBT

Cám ơn hai cô. Tuần qua có một khán giả của chương trình hỏi về thì CONTINUOUS TENSES và cách dùng của chúng, đặc biệt là thì PRESENT CONTINUOUS. Thì PRESENT CONTINUOUS được tạo thành với động từ TO BE ở thì hiện tại (PRESENT TENSE OF TO BE) và PRESENT PARTICIPLE của động từ chính. Muốn có PRESENT PARTICIPLE, hiện tại phân từ, chúng ta thêm cái đuôi ING vào chữ cuối của động từ là được: VERB+ING. Chuyện này, ai cũng đã biết.

Ngoại trừ một số động từ khiếm khuyết DEFECTIVE VERBS không có PRESENT PARTICIPLE, tất cả các động từ khác đều có PRESENT PARTICIPLE. Chúng ta không có MUST+ING, MAY+ING, WOULD+ING… là vì các động từ MUST, MAY, WOULD đều là các động từ khiếm khuyết. Khiếm khuyết là thiếu. Chúng không có tất cả các thì như các động từ khác.

LÃM THÚY

Thưa anh, Thúy nhớ CONTINUOUS TENSE được dùng để chỉ những việc đang xẩy ra, đang diễn ra vào lúc đang nói. Nhưng trong câu này thì chuyện đâu có đang xẩy ra: THE PRESIDENT IS FLYING TO LONDON NEXT WEEK. Tại sao NEXT WEEK là tương lai mà QA lại thấy bài báo dùng PRESENT CONTINUOUS?

BBT

Cô Thúy thắc mắc rất đúng. Thì PRESENT CONTINUOUS có thể đươc dùng để nói về một việc sẽ diễn ra trong tương lai gần (NEAR FUTURE), một việc đã được dự tính, sửa soạn trước và có phần chắc là sẽ diễn ra trong vài ba ngày tới, trong một tương lai rất gần. Cô Thúy có dự tính gì trong một hai ngày tới không, nếu có, cô dùng thì PRESENT CONTNUOUS để nói về việc đó được không?

LÃM THÚY

I AM DRIVING TO SAN JOSE THIS WEEK-END.

THEY ARE COMING FOR THE WEDDING AT THE END OF THE MONTH.

BBT

Còn QA?

QA

MY SON IS RETURNING TO SCHOOL IN TWO WEEKS’ TIME.

THEY ARE HELPING US TO CLEAN THE GARDEN TOMORROW.

BBT

Ðã nói về PRESENT CONTINUOUS thì phải nói cho hết. Thì này cũng có thể được dùng để nói về một việc diễn ra trong khoảng thời gian này, không nhất thiết phải xẩy ra đúng vào lúc chúng ta đang nói. Thí dụ khi tôi nói I AM READING A VERY INTERESTING BOOK BY MAI THẢO thì trong tay tôi có đang có cuốn sách của ông Mai Thảo không?

LÃM THÚY

Có thể có và có thể không. Có thể anh đang đọc cuốn sách đó ở nhà, đã đọc từ mấy hôm nay, chưa đọc hết, lát chiều về đọc tiếp. Không cần phải đang cầm trong tay cuốn sách ấy. Nhưng nếu đang cầm cũng không sao. Thúy có thể nói I AM WATCHING A KOREAN FILM AT HOME trong lúc Thúy đang ngồi đây học tiếng Anh với anh cũng vẫn được như thường. HOW ABOUT YOU, QA?

QA

I AM KNITTING A SWEATER FOR MY NIECE BECAUSE WINTER IS COMING VERY SOON.

BBT

Như vậy, hai cô còn thắc mắc gì về CONTINUOUS TENSE nữa không? Nếu không, chúng ta sẽ học một số idioms chăng?

LÃM THÚY

Vâng, đề nghị anh dậy một số idioms về FOOD.

BBT

Idioms về FOOD thì nhiều lắm, chúng ta sẽ không đủ thì giờ. Tôi sẽ chỉ kể ra ở đây những idioms có những chữ liên quan đến thức ăn nhưng lại không dùng để ăn mà tôi nghĩ là rất lý thú mà thôi. Thí dụ hai cô thế nào chẳng đã nghe HE IS OUT TO LUNCH rồi phải không? Cau ấy có thể hiểu là ông ấy đi ăn trưa rồi, nhưng cũng còn có nghĩa là ông ấy điên điên, khùng khùng như khi nói EVER SINCE SHE LEFT HIM, HE HAS BEEN OUT TO LUNCH.

QA

Thưa anh, nói về một thứ thường dùng để ăn nhưng lại không ăn, QA nghĩ HOT POTATO là một trường hợp như thế. Anh cho QA nghe một thí dụ để biết cách dùng nó được không?

BBT

HOT POTATO nghĩa là một chuyện nhức đầu, rất khó làm, có thể gây khó khăn cho người ta. Thí dụ tổng thống Obama lôi chuyện xây đền Hồi giáo ở New York ra nói và sau đó bị đả kích dữ dội, thì chuyện ông ủng hộ việc xây dền Hồi giáo là một củ khoai nóng, cầm thì phỏng tay, ăn không được. THE PLAN TO BUILD A MOSQUE IN NEW YORK WAS A HOT POTATO FOR PRESIDENT OBAMA.

LÃM THÚY

Thúy thấy có một chương trình truyền hình tên là MORNING JOE mỗi sáng trong tuần. Thúy biết đó là chương trình của JOE SCARBOROUGH nhưng Thúy được con trai giảng nghĩa JOE là ly cà phê. Ðiều đó có đúng không?

BBT

Ðúng. Lý do là một ông bộ trưởng hải quân, ông JOSEPH DANIELS hồi năm 1913 ra lệnh cấm thủy thủ uống rượu trên tầu và từ đó, thủy thủ trên các tầu hải quân Mỹ uống nhiều cà phê hơn và họ gọi cà phê là JOE , theo tên của ông bộ trưởng. Ngày nay, A CUP OF JOE là một ly cà phê.

QA

QA nghe mấy đứa con thỉnh thoảng nói với nhau rằng IT’S APIECE OF CAKE, nhưng nhìn quanh, QA không thấy cái bánh nào cả. Vậy A PIECE OF CAKE là gì thưa anh?

BBT

A PIECE OF CAKE được dùng để mô tả một việc gì rất dễ, dễ như trở bàn tay. Người Việt có một câu cũng gần như thế: DỄ NHƯ ĂN CƠM SƯỜN. Thí dụ TO HIM, THE TEST WAS A PIECE OF CAKE. Trong khi đó, TO SELL LIKE HOT CAKES thì lại tương đương với câu ÐẮT NHƯ TÔM TƯƠI. THE NEW CD’S BY MICHAEL JACKSON ARE SELLING LIKE HOT CAKES.

LÃM THÚY

Nhân đang có vụ trứng nhiễm vi khuẩn salmonella, trong tiếng Anh có nhiều idioms với EGG không thưa anh?

BBT

Có. Ðây là hai idioms với EGG. Muốn nói một người hay gặp rắc rối, hay dính vào những chuyện không hay, như con cừu đen trong gia đình, tiếng Anh gọi là A BAD EGG. Thí dụ HE HAS MANY FRIENDS, BUT MOST ARE BAD EGGS.

TO PUT ALL OF ONE’S EGGS IN ONE BASKET là trông vào có một điều, một chuyện mà thôi, như một người đầu tư bỏ hết tiền vào trong một chương trình, đó là một việc làm dại dột, lỡ công ty ấy lỗ to thì tiền bạc đổ vào cũng mất hết. SO WE HAVE TO DIVERSIFY OUR INVESTMENTS. Nhưng NEST EGG thì lại có nghĩa là một món tiền để dành hay đầu tư vào một chương trình nào đó, tiền bỏ trong quĩ về hưu cũng là NEST EGG.

QA

QA còn nghe hai chữ này nữa mà không biết nghĩa của chúng. Ðó là WET NOODLE.

BBT

WET NOODLE là một sợi mì ướt. Sợi mì ướt thì mềm nhũn. Dùng một sợi mì ướt mà đánh ai thì người ấy nhất định không thấy đau gì hết. Khi nói anh ấy đáng bị quất cho hai chục sợi mì ướt HE DESERVES TWENTY LASHES WITH A WET NOODLE nghĩa là tội của anh ấy nhẹ, nên phạt cũng nhẹ thôi, đánh cho hai chục sợi mì ướt. Nhưng USE YOUR NOODLE thì lại không có nghĩa là dùng sợi mì để đánh ai, mà chỉ có nghĩa là động não, dùng óc của mình, dùng đầu óc để suy nghĩ, phán đoán. CROSSWORD PUZZLES REQUIRE THE USE OF YOUR NOODLE.

Người Anh rất thích uống trà, vì thế khi nói IT IS MY CUP OF TEA thì ý nghĩa của thành ngữ này là gì Thúy biết không?

LÃM THÚY

Thúy nghe một câu ngược lại câu đó: IT IS NOT MY CUP OF TEA. Thúy nghĩ câu ấy được dùng để nói về một điều gì mình không thích. Trong khi IT IS MY CUP OF TEA thì nghĩa là một chuyện gì, một điều gì mình rất thích.

BBT

Ðúng thế. Nhưng tùy theo từng trường hợp, câu IT IS NOT MY CUP OF TEA có thể có những nghĩa khác nhau.

IT IS NOT MY CUP OF TEA có thể có nghĩa đó không phải là việc của tôi. Nó cũng có thể có nghĩa là chuyện ấy quá khó với tôi.

QA

Thưa anh, IT IS MY CUP OF TEA , đó là điều tôi ưa thích có cùng nghĩa với APPLE OF ONE’S EYE không?

BBT

Nghĩa thì hơi gần thôi. Khi nói SHE IS THE APPLE IN HER FATHER’S EYE thì câu ấy nghĩa là cô ấy là cục cưng của cha cô ấy. Quả táo thì ngon lắm. Trong mắt cha cô, cô là quả táo. Nghiã là cha cô ấy yêu cô ấy lắm.

Còn AN APPLE A DAY WILL KEEP THE DOCTOR AWAY là một điều tin tưởng có từ mấy trăm năm nay. Người ta tin quả táo vừa ngon vừa bổ. Mỗi ngày ăn một quả táo thì sức khỏe tốt, lương y bất đáo gia.

QA

Bài học Anh ngữ thứ 89 của chương trình Anh Ngữ Trong Ðời Sống Hàng Ngày của Hồn Việt Television tạm chấm dứt ở đây. Chương trình sẽ trở lại trên màn ảnh Hồn Việt Television trong bài học tới. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin gửi lời chào tạm biệt quí vị.

August 19, 2010

August 20, 2010

Ngày 16 tháng 8 năm 2010

Bạn ta,

Tôi nhớ là không có được mấy bức ảnh chụp hồi còn bé. Hồi ấy, rất ít người có máy chụp ảnh. Thỉnh thoảng lắm tôi mới có dịp để chụp một bức ảnh, thường là ở tiệm. Cũng có những bức ảnh chụp rồi không biết chúng đi đâu. Như có một lần, trong dịp Tết năm nào không nhớ, tôi đang đi trên cầu Thê Húc với ông bố thì có một người đàn ông, mà tôi chắc là một người Pháp chận chúng tôi lại, và xin chụp hình tôi.

Chắc tôi phải … đẹp lắm mới được người lạ xin chụp bức ảnh .

Dĩ nhiên là bức ảnh tôi không bao giờ được nhìn thấy. Người chụp tôi không quen, không có dịp gặp lại làm sao xin được bức hình. Có thể nó được in ra, gửi về Pháp cho gia đình người chụp bức ảnh, có thể đằng sau bức ảnh ấy có ghi mấy chữ đại khái Jeunne Annamite hay Enfant Indigène. Gia đình của người đàn ông chắc phải ngạc nhiên lắm khi thấy đứa bé thổ dân ở cái thuộc địa xa xôi đang chiến tranh mù mịt đó lại có được bộ quần áo bảnh bao như vậy. Cũng áo blouson dạ, có fermeture để kéo lên kéo xuống đỡ … buồn, dưới chân lại đi đôi dép đế crêpe kiển fisherman’s shoes như tôi mới biết tên gọi hồi gần đây.

Bức ảnh có thể không còn nữa. Người đàn ông Pháp ấy biết đâu cũng đã ra đi từ lâu. Cuốn album (mà đã chắc gì bức ảnh được dán trong ấy) có thể cũng đã bị quăng vào thùng rác từ nhiều năm nay.

Nhưng mới đây, có một bức ảnh chụp từ hơn nửa thế kỷ, đúng ra là phải gần 60 năm trước, do một người tìm thấy gửi cho tôi. Bức ảnh tôi không nhớ được chụp trong dịp nào mà lại chỉ có một người đàn ông khoảng ngoài ba mươi và một đứa bé 7 hay 8 tuổi. Bức hình đen trắng đằng sau không có "phông" như những bức ảnh chụp thời đó. Chắc người đàn ông nghĩ chỉ có hai bố con, bầy vẽ ngồi ghế phía sau có "phông" vẽ hàng liễu rủ , cảnh hồ Gươm làm gì.


photo

Người đàn ông tóc đen nhánh. Mới hơn ba mươi tuổi, tóc đen là phải. Ông mặc một bộ veste có cả gilet ở trong. Cổ sơ mi nhọn, ca vát thắt nút đơn . Ông hiệu trưởng trường tiểu học Ngô Sĩ Liên Hà Nội mà cũng diện gớm. Còn đứa bé thì đội trên đầu cái mũ nồi mà tôi chắc cái sợi dạ trên đỉnh mũ không còn nữa vì đứa bé cầm cái sợi ấy trong ta và xoay cho cái mũ beret quay quay thì làm sao còn dính được ở trên mũ nữa. Đứa nhỏ mặc áo sơ mi, cổ sơ mi nằm bên ngoài, đè lên cổ áo blouson kéo fermeture lên cao. Đứa bé cười tít mắt lại, hàm răng đều như những hột ngô. Hai má phính chưa có một cái mụn trứng cá nào.

Đứa bé đang nghĩ gì? Chắc đang nghĩ tới mấy viên kẹo sỏi trong túi mà bố nó vẫn mua cho nó những lần "lên phố", hay đang nhớ mấy câu hát bậy vừa học được từ mấy đứa bé trong xóm.

Chắc nó đã có nghe Điện Biên Phủ, Cánh Đồng Chum, Na Sản, De Lattre … mà những bản tin đài phát thanh đã nhắc tới nhiều lần hồi đó đó. Nó có thể nghĩ tới những trò chơi với mấy đứa em, tiệm kem Phi Điệp, Cẩm Bình, quán Mụ Béo ở bờ Hồ, những chuyến xe điện chạy ngang Quốc Tử Giám xuống Đống Đa, trên đường đi Hà Đông, cuốn phim Một Ngày Tại New York với Gene Kelly, hay cuốn Ivanhoe có Robert Taylor, phim Quo Va Dis cảnh Neron ăn tảng thịt cừu chùi tay mỡ vào hai cô tóc vàng mà đến nay nó vẫn ao ước có lần làm được, hay phim Les Trois Mousquetaires với tiếng gươm kêu loảng xoảng của các chàng ngự lâm pháo thủ …

Lúc bức ảnh ấy được chụp, thì một người hơn tôi mấy tuổi mà vài chục năm sau tôi mới quen, có thể đang ngồi trên một bậc tam cấp với chiếc đàn ghi ta đầu tiên của chàng như trong một bức ảnh cũ. Đó là Trịnh Công Sơn. Một người khác mãi 10 năm sau tôi mới quen, không biết đã bắt đầu chơi những trò tinh nghịch chưa, đó là Đinh Ngọc Mô của mấy năm cuối trung học. Lúc ấy, mấy người mà vài ba chục năm sau tôi mới gặp chắc có người chưa ra đời, có người nếu đến nhà … mời đi chơi chắc sẽ được nhắc là phải thay tã cho em rồi hãy … bế em đi chơi.

Người đàn ông trong ảnh là bố tôi. Và đứa bé thì là tôi. Tôi vẫn nhận ra đứa bé ấy. Mấy cái răng bầy ra trong ảnh bây giờ vẫn còn.

Bức ảnh quí biết là chừng nào. Tự nhiên bằng ấy chuyện lúp xúp kéo nhau trở về. Tôi được biết bức ảnh được chụp ở Hà Nội, tại một tiệm chụp ảnh ở phố Huế. Bức ảnh được gửi cho chú tôi, và gia đình chú tôi còn giữ được. Cô em họ nghĩ tôi muốn xem lại nên gửi sang cho. Trong hình, tôi còn nhỏ hơn cả mấy đứa cháu nội.

Bức ảnh, nếu nhận được vài chục năm trước chắc tôi đã quăng đi, hay ít nhất, cũng cắt bỏ một nửa, giữ lại nửa có hình ông hiệu trưởng trường Ngô Sĩ Liên, vì tôi quả thực thấy đứa bé trông chán quá. Nhưng bây giờ nhận được, thì bức ảnh lại đáng quí biết bao. Vì thế, ảnh chụp có không giống mình, có xấu cách mấy đi chăng nữa thì chúng ta cũng vẫn nên giữ. Một phần , một đoạn đời của chúng ta ngừng tạm ở đó. Khi người mẹ còn rất trẻ, khi mấy đứa em còn rất bé, khi đầu óc còn trong sáng , không ưu tư, không sầu não, chưa biết chiến tranh, chưa biết chết chóc phân ly …

Và quả như tôi đã nghĩ, khi đưa bức ảnh cho mấy đứa cháu xem, hai đứa lớn hét lên rằng sao bố (?) chúng nó có thể xấu trai đến là như vậy!


Ngày 17 tháng 8 năm 2010

Bạn ta,

Kiss and Tell, trò chơi của khá nhiều người, cho đến nay vẫn chưa có một cách nào để có thể đối phó lại một cách hữu hiệu.

Mà đó là những trường hợp có "kiss" thật. Tuy thế, nếu có "kiss" thật, đem chuyện "kiss" đi "tell" thì cũng không oan uổng, chỉ có hành động "tell" không mấy hào hiệp, mã thượng, anh hùng và văn minh, đáng trách mà thôi.

Người làm công việc "tell" đó có thể viết nguyên một cuốn sách, hay gọi mấy tờ báo lá cải tới, kể hết mọi chuyện, phơi ra tất cả các thứ thật cũng như bịa đặt ra để kiếm chút tên tuổi hay tiền bạc. Như những người có liên hệ ít nhiều với Diana đã làm chẳng hạn. Người chết, Diana, không thể lên tiếng biện hộ, bào chữa được cho mình. Người làm công việc "tell" tha hồ bịa đặt.

Nhưng khi không có chuyện "kiss", mà vẫn cứ "tell" thì phải làm sao?

Mục Dear Abby mới đây có một độc giả đưa ra được giải pháp hay tuyệt. Abby không đóng góp thêm được bao nhiêu cho bức thư của người độc giả ở New Jersey.

Ðộc giả này đưa ra góp ý của mình sau khi thấy câu trả lời của Abby quá dở về vụ một thiếu nữ 14 tuổi bị người bạn trai cũ bịa đặt nói là đã ngủ với cô. Abby khuyên nạn nhân nên bắt kẻ phao tin nhảm phải đến trước mặt cô và xin lỗi, cam đoan chuyện đó không hề xẩy ra. Nhưng làm được chuyện đó thì cần gì phải nói nữa.

Tác giả viết bức thư ở New Jersey đề nghị là nếu có ai mách cô (nạn nhân) rằng đương sự X khoe nhắng lên rằng y đã ngủ với cô, thì cô chỉ cần nói rằng " Ðúng... nó có thử, nó có cố gắng làm chuyện đó, nhưng không được vì nó (?) nhỏ quá" -- Yes, he tried, but he was sooo small.

Nhất định câu nói đó sẽ được đem mách lại cho kẻ phao tin đồn nhảm. Và nghe những nhận định như thế, thì đương sự chỉ có cách đào cái lỗ, chui xuống, lấp lại thì mới hết xấu hổ.

Và trò bịa đặt, mạ lỵ đó phải chấm dứt.

Thế nhưng đó là trường hợp một người đàn ông, một người phái nam bịa đặt chuyện để bôi bẩn một thiếu nữ, một phụ nữ. Khi xẩy ra một trường hợp ngược lại, kẻ phao vu, bịa đặt là một phụ nữ, tuy ít khi xẩy ra nhưng cũng đã xẩy ra, phao vu những điều bịa đặt như vậy thì nạn nhân phải làm gì?

Không thể dùng câu mà người viết lá thư ở New Jersey ra dùng được. Không thể nói là "Ðúng... nó có thử, có cố gắng, nhưng không được vì nó (?) nhỏ quá" được.

Cũng không thể nói là "Ðúng... nó có thử, có cố gắng, nhưng không được vì nó (?) to quá" được.

Nói như vậy, nói là đương sự "nhỏ" hay "to" quá, cách nào cũng là những lời khen ngợi (?) dành cho kẻ bịa đặt, phao vu, mạ lỵ, bởi lẽ "nhỏ" cũng hay mà "to" cũng tốt. Kẻ vu cáo không đáng được dành cho những lời ngợi khen đó.

Thế nên đề nghị của người độc giả viết lá thư cho Dear Abby không thể dùng để đối phó với trường hợp kẻ phao vu, bịa đặt là phụ nữ.

Tưởng tượng những cú điện thoại gọi đến tận nhà của bạn bè nạn nhân nói rằng nạn nhân(?)-- trong trường hợp này là một người đàn ông-- là một người rất tài giỏi về chiến thuật và chiến lược, xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài tan, cốt để hạ uy tín và đạo đức của chàng, rồi nói thêm rằng đương sự mới xứng đáng, mới yêu chàng, mới được chàng yêu lại nhắm tạo những rắc rối cho những liên hệ mới của chàng... thì phải giải quyết như thế nào?

Khó nhưng không phải là không có cách. Bạn tôi ở đây, dường như cũng có lần bị một chuyện tương tự. Chàng nói với bạn(?) chàng rằng lần tới, điện thoại gọi đến, cho dù là đêm khuya canh vắng hay sớm mai đầu ngày, cứ hỏi lại phía bên kia rằng "tốt" thế sao lại bỏ, uổng quá đi thôi!

Chắc phải hết.


Ngày 18 tháng 8 năm 2010

Bạn ta,

Hình như chỉ từ khi ra khỏi Việt Nam, báo chí Việt ngữ mới có trò in kèm theo hình của chủ nhân các cơ sở, các dịch vụ trong những quảng cáo đăng trên báo.

Việc in kèm những bức hình này thực ra cũng có cái lý của nó. Người đăng quảng cáo kèm theo bức hình là để muốn được nhận diện khi thân chủ đến với cơ sở của mình. Ông hay bà muốn, sau khi bỏ tiền đăng quảng cáo, khách sẽ đến với mình chứ không tới với các đồng nghiệp khác, nhất là trong các dịch vụ được trả commission, hoa hồng, thay vì được trả lương cố định.

Trong suốt bao nhiêu năm ở Việt Nam, có lẽ chỉ có ông Khánh Sơn, thực ra, luôn luôn là Maitre Khánh Sơn, hay Prof Khánh Sơn, chuyên sống về nghề tử vi, bói toán, mới có hình đăng trên báo. Trong hình, bao giờ ông cũng có vẻ chững chạc, đạo mạo và thông thái. Người ta tìm đến với ông chắc cũng phần nào nhờ nét thông thái trong hình. Vậy chuyện ông in hình trên báo là hợp lý.

Chủ nhân một tiệm trang điểm cô dâu, bán hay cho thuê áo cưới cũng nên đăng kèm vài ba bức hình của mình. Những bức hình đẹp cô đăng ở các quảng cáo sẽ làm nhiều người muốn chạy lại nhờ cô trang điểm. Chủ nhân của các cơ sở làm đẹp này nên dùng những bức ảnh đắc ý nhất. Những bức ảnh đó là những quảng cáo rất hữu hiệu cho dịch vụ làm đẹp của tiệm.

Các thẩm mỹ viện cũng thế, nhưng nên tìm những bức ảnh cũ thì tốt hơn. Mời du khách đến thăm xứ sở của mình thì nên dùng những hình ảnh thanh bình xưa cũ. Dùng những bức Việt Nam bi thảm Ðông Dương, bản dịch của Ðường Bá Bổn thì rất không nên. Các chủ nhân nên dùng những bức ảnh, như Bernard Shaw vẫn nói về bức tượng của ông: "The damn thing gets younger and younger everyday." Ông than thở ông thì già đi mà nó thì cứ mỗi ngày mỗi trẻ ra.

Nhưng các dịch vụ khác thì không cần phải chọn những bức ảnh đẹp nhất để đăng báo. Thí dụ như dịch vụ địa ốc chẳng hạn. Cứ kiếm những bức xấu đẹp tùy người đối diện là được. Chúng tôi đi mua nhà chứ không đi tuyển lựa hoa hậu Mỹ quốc. Nhà ở khu tốt, giá phải chăng, điều kiện dễ dàng là chúng tôi mua. Người bán xấu hay đẹp, có duyên hay vô duyên, kèm bên cạnh tên những chữ viết tắt không thấy trong bất cứ một cuốn niên giám đại học nào, không là yếu tố quyết định để mua nhà.

Trong dịch vụ mua bán xe cũng thế. Không lẽ bán xong cái xe, lại muốn đi theo chủ của chiếc Jaguar về luôn sao. Do đó, không cần hình đẹp trong những quảng cáo này.

Trong những dịch vụ khác, nên kiếm những bức hình càng xấu càng tốt. Những bức hình xấu và dữ tợn có thể lại có tác dụng tốt cho dịch vụ được quảng cáo trên báo.

Thí dụ văn phòng luật sư thì phải dùng những bức hình hung tợn, da mặt như cái lốp xe hơi, nhan sắc của những gangsters, sát nhân kiểu John Cochran, luật sư cãi cho OJ Simpson trước đây. Hay nếu không thì phải mặt mũi kiểu chó đẻ như Benjamin Brafman hay Lee Bailey, lúc nào cũng như muốn ăn tươi nuốt sống phía bên kia.

Trong những trường hợp như thế, cứ tìm bức hình xấu nhất, dữ tợn nhất, khủng khiếp nhất, trước khi căng da mặt, sửa mũi, bơm môi thì lại càng tốt.

Những bức hình xấu như thế lại làm cho thân chủ hay những người dự tính nhờ giúp đỡ tại tòa yên tâm hơn. Trông càng dễ sợ càng ăn khách. Chứ luật sư mà trông hiền thì có giỏi thật đấy, nhưng trông không bảo đảm chút nào.


Ngày 19 tháng 8 năm 2010

Bạn ta,

Tôi đã cố, nhưng không thể nào tìm được xuất xứ đích xác định nghĩa về hạnh phúc mà chúng ta nghe đã rất nhiều lần từ mấy chục năm qua: Ở nhà Tây, đi xe Hoa kỳ, ăn cơm Tầu, lấy vợ Nhật.

Nó có từ bao giờ, ai là người xướng nó lên lần đầu tiên, ở đâu, trong dịp nào vân vân. Tôi xin chịu.

Nhưng rõ ràng là những định nghĩa này phải có sau ông Tú Vị Xuyên, vì nếu có từ thời ông còn sinh tiền, trước năm 1906, chắc chắn chúng ta phải đọc được những thứ ấy trong thơ của ông. Ông là người rất mới trong ngôn ngữ: nhẫn ma dê, rượu sâm banh, sữa bò... thơ ông đầy những thứ như thế. Nhưng ông không đề cập đến những hạnh phúc ở nhà Tây, đi xe Hoa kỳ, ăn cơm Tầu, lấy vợ Nhật. Ông có ăn cao lâu (quịt) và có ước muốn lấy vợ đầm (...Cụ sứ có cô con gái đẹp / Lăm le xui bố cưới làm chồng...) còn những thú vui kia thì không thấy ông nhắc.

Vậy thì nó phải xuất hiện khá lâu sau đó, khi những chiếc xe Hoa kỳ bắt đầu chạy trên đường phố Việt Nam. Thời những năm 1920, theo Vương Hồng Sển, chưa có xe Hoa kỳ ở Ðông Dương (Sài Gòn Tạp Pín Lù, Văn Nghệ xuất bản năm 1994, trang 165). Vậy thì phải đến những năm 30 hay 40, mới có xe Hoa kỳ, chạy êm, đẹp và hay hơn những Hotchkiss, Bugatti, Alfa Roméo... mà cụ Vương kể trong sách của cụ.

Từ đó đến nay, những thứ đem lại cho chúng ta hạnh phúc đã thay đổi. Xe Hoa kỳ không còn tốt nhất nữa. Nhà Tây thua nhà Mỹ xa. Cơm Tầu nhiều dầu, mỡ, không tốt cho tim mạch. Phụ nữ Nhật không còn chiều chồng như trước nữa, họ cũng nói nhiều, nói dai, nói ác, hành hạ những người đàn ông Nhật đến điều, cho các chàng ăn hủ tiếu dai, canh rau đay, thịt băm nghiền như điên, đến nỗi các salarymen tan sở phải bò đi hát karaoke đến khuya mới lén về nhà, mắt không còn hừng hực lửa như các võ sĩ ngày xưa nữa...

Do đó, mấy thứ đem lại hạnh phúc cho thế hệ ông cụ tôi hay trước đó một chục năm, nay không còn tạo được hạnh phúc nữa. Bây giờ, hạnh phúc có thể chỉ còn ba thứ, thay vì bốn, đó là ở nhà Mỹ, lái xe Nhật, và ăn cơm mẹ nấu.

Thỉnh thoảng nhớ lại những thứ một thời đem lại hạnh phúc cho các cụ, tôi cứ thắc mắc không biết các dân tộc khác có được những suy nghĩ tỉ mẩn như các cụ chúng ta không?

Tôi cho là không. Có thể ít có dân tộc nào vọng ngoại nhiều như chúng ta, và hạnh phúc với những thứ họ có, không cần đi tìm kiếm đâu xa chăng?

Nhưng sáng nay một người bạn e-mail cho tôi mấy định nghĩa về địa ngục thiên đường khiến tôi nghĩ cũng có người có những suy nghĩ khá giống chúng ta. Vậy thì nhân loại khi mưu tìm hạnh phúc cũng giống nhau đấy chứ.

Và đây là thiên đường, địa ngục như định nghĩa của cái e-mail ấy:

Heaven is when you have an American salary, a British home, Chinese food, a German car and a Latin lover.

Hell is when you have an American car, a British lover, a Chinese house, German food and a Latin salary.

Lương Mỹ thì vui hơn lương Mễ, lương El Salvador, Honduras, Nicaragua, Colombia... ở Mỹ châu La Tinh nhiều.

Nhà Ăng Lê thì tốt hơn nhà Trung Hoa. Trước tiên là cái cầu tiêu. Ngồi cái fosse Anglaise oai và thoải mái hơn cái bô (ở góc nhà, dùng chung với một chục người khác, dùng xong đem đi đổ xuống sông) trong những căn nhà ở Thượng Hải như tờ Washington Post vừa cho biết rất nhiều.

Cơm Tầu vẫn được coi là hơn các thứ cơm khác. Ðồ ăn của Ðức thì ngoài món hamburger (thịt nghiền kiểu Hamburg), không ai nhớ nổi người Ðức... ăn gì nữa.

Người tình La Tinh (Ý, Tây Ban Nha, Nam Mỹ) thì nhất định phải hay hơn người tình Ăng Lê như trong một hài kịch của Monty Python mấy năm trước: No Sex, We Are British.

Còn xe thì xe Ðức đang dẫn đầu trước tất cả mọi loại xe Mỹ. Ði Chevrolet thì thà đi cái Mercedes, cái BMW, cái Audi... còn hơn.

Như vậy là nhà cửa, xe cộ, đồ ăn thức uống tất cả đều được nói tới trong các định nghĩa tôi mới được nghe về hạnh phúc.

Nhưng không có câu nào nói về vợ là làm sao?

Không hiểu được. Hay không thế mới là hạnh phúc, thiên đường và... địa ngục?


Ngày 20 tháng 8 năm 2010

Bạn ta,

Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh định nghĩa quân tử là người tài đức xuất chúng, người phẩm hạnh ngay thẳng, người có nhân cách hoàn toàn, theo Khổng giáo. Trong khi đó, Từ Ðiển Tiếng Việt của Trung Tâm Từ Ðiển Ngôn Ngữ của Hà Nội thì giải thích danh từ quân tử là người có tài, có đức trong thời phong kiến cổ đại ở Trung quốc.

Nhưng danh từ quân tử Tầu thì không có từ điển nào ghi.

Quân tử Tầu là chữ của miền Nam. Miền Bắc, trong sự tôn kính dành cho nước của Mao Trạch Ðông, không thể có danh từ đó. Tầu là danh từ thiếu tôn kính mà nhà nước hết sức tránh để khỏi làm mất lòng người đồng chí phương Bắc, đến độ cuốn Người Ðàn Bà Tầu (tức là bản dịch cuốn Ðài Gương) của Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, khi được in lại, tựa đề cũng phải sửa thành Người Ðàn Bà Trung Quốc.

Nhưng ở miền Nam thì chữ Tầu được dùng thả cửa, cho cả những ý xấu cũng như ý tốt. Cơm Tầu, ghẻ Tầu, phim Tầu, đàn bà Tầu, phố Tầu... và quân tử Tầu.

Quân tử Tầu hơi khác với những định nghĩa của quân tử thường tìm thấy trong các từ điển.

Quân tử Tầu cũng có nghĩa là quân tử, cũng tử tế, ngay thẳng, cũng tốt bụng nhưng hơi ngu một chút, ngu trong ý nghĩa tốt đẹp nhất của nó.

Không đánh người ngã ngựa là quân tử. Không đánh mà còn giúp cho nó leo lên ngựa, lại dúi cho nó vài chục để nó đi đường ghé tiệm ăn cơm Tầu cho bõ những ngày cơ cực sau khi nó đối xử với mình không ra gì, là quân tử Tầu.

Như thế, quân tử Tầu là người tốt, quá tốt đến độ hơi ngu một chút là khác. Nhưng quân tử Tầu vẫn là người tốt. Trong đời chúng ta chắc chắn đã gặp bao nhiêu người như thế, thứ người có lối hành xử không thông thường, kiểu như vừa bước ra khỏi một pho truyện Tầu nào, không Tam Quốc thì Ðông Chu, không Ðông Chu thì cũng trong bộ Cổ Học Tinh Hoa. Có lẽ vì thế, để dễ hiểu, và để phân biệt với các loại quân tử khác, chúng ta có chữ quân tử Tầu.

Nhưng đã đến lúc phải cho danh từ này về hưu, xếp nó vào những chữ cổ, không dùng nữa, vì một số lý do.

Thứ nhất, người Trung Quốc không bao giờ có những chữ tương đương nào với ý nghĩa tốt đẹp dành cho chúng ta, người Việt. Vậy thì tại sao phải tiếp tục tử tế với người Trung Quốc, dùng danh từ quân tử Tầu, trong đó, chữ Tầu mang toàn những hình ảnh tốt đẹp trong khi họ có bao giờ tử tế với chúng ta đâu. Nước Anh và nước Pháp chơi nhau đến nơi đến chốn. Cái bao cao su ngừa thai, phòng bệnh người Pháp gọi là capote anglaise thì người Anh gọi là French letter. Không nhường nhau một ly. Ông bỏ nước Anh của chúng tôi xuống dưới đó, thì chúng tòi cũng bỏ nước Pháp của các ông xuống ngay.

Thứ hai, người quân tử ở nước Tầu nay không còn nữa. Mà đó là khẳng định của ông Bá Dương, tác giả cuốn Người Trung Quốc Xấu Xí, một nhà báo ở Ðài Loan. Người Trung Quốc qua cái nhìn của ông Bá Dương, là một dân tộc hay đấu đá nhau, tính tình nhỏ nhen, bần tiện, ăn ở dơ dáy, nói năng thô tục, bất lịch sự không thể nói hết. Ông kể chuyện một số du khách Trung Quốc sang thăm Hoa kỳ đã vô cùng kinh ngạc trước lối sống lịch sự của người Mỹ, luôn miệng xin lỗi, cám ơn, nhường nhau đi trước ở cửa ra vào, ngoài đường phố...

Người Trung Quốc thì không thế. Nhưng có lẽ Trung Quốc đang tìm cách thay đổi những hình ảnh không tốt bằng cách sửa mình cho văn minh hơn. Họ đang cố bỏ thói xấu khạc nhổ của 2/3 tổng số dân Hoa lục bằng cách phạt mỗi cú nhổ một số tiền tương đương với 6 Mỹ kim và phải cúi xuống lau ngay cho sạch chỗ vừa nhổ xuống. Ðiều này là điều cần thiết, vì nếu không, 2/3 của dân số 1 tỷ 300 triệu người cùng đứng lên, nhổ xuống một cái thì sẽ có nhiều người chết đuối nếu không biết bơi để thoát ra bãi đờm và nước bọt đó.

Xong chuyện khạc nhổ, bây giờ qua chuyện xin lỗi. Ông Giang Trạch Dân hồi ấy đi công du mấy nước về liền (nín khạc nhổ một lúc) ra trước cuộc họp báo nói rằng ông đi đâu cũng thấy mọi người lịch sự, ông nghĩ đó là bài học tốt. Mọi người nên xin lỗi nhau nhiều hơn. Và nước Mỹ, theo ông Giang Trạch Dân, nên đi bước đầu là xin lỗi Trung Quốc về vụ chiếc phi cơ trinh sát của hải quân Mỹ làm rơi chiếc phản lực cơ F-8 làm thiệt mạng một hoa tiêu của không lực Trung Quốc. Chừng nào cái cột đèn xin lỗi đã gây ra tai nạn cho người lái chiếc xe húc vào cột đèn thì người Mỹ mới cần xin lỗi Trung Quốc.

Sau đó, nói chuyện đòi tiền sau, như vụ oanh tạc lầm vào sứ quán Trung Quốc ở thủ đô Nam Tư trước đây.

Người ngợm đất nước như thế thì không thể có lý do nào để chúng ta dùng chữ quân tử Tầu nữa. Nham nhở vừa thôi chứ!


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


(Bài số 88)

Bản ghi chép do Quỳnh Anh thực hiện. Bài học số 88 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 10 năm 2010.

QUỲNH ANH:

Đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy, và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.

Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.

Thưa anh, trong bài trước anh có nói về trạng từ rất kỹ. Nhưng có ba tiếng trạng từ QA chưa hoàn toàn hiểu rõ. Chúng có vẻ giống nhau nhung QA biết chắc chúng không giống nhau hoàn toàn. Đó là VERY, SO và TOO. Làm thế nào phân biệt và dùng chúng sao cho đúng thưa anh.

LÃM THÚY

Thúy biết cả ba đều có nghĩa là rất nhiều, nhiều một cách bất thường, nhiều lắm. Nhưng chắc không thể dùng chữ này thay thế cho chữ kia được. Chắc chắn chúng phải khác nhau không ít.

BBT

Cô Thúy nói đúng. Thí dụ nói trời nóng. IT IS HOT. Nhưng nếu nóng nhiều như tuần trước ở Arizona, Texas hay Washington DC thì nói IT IS HOT chưa đủ. Chúng ta cần một trạng từ để nói rõ là trời rất nóng, "cái nóng nung người, nóng nóng ghê" như cái nóng làm khổ cụ Nguyễn Khuyến.

Và đó là lúc chúng ta cần ba trạng từ VERY, SO và TOO. Trạng từ VERY thì dễ dùng. VERY là rất, là nhiều lắm, là dữ dội lắm. IT IS VERY HOT. Hai cô chắc chắn không có điều gì thắc mắc về cách dùng của nó. VERY nghĩa là rất, nhưng chúng ta vẫn có thể chịu nổi. HOUSES ARE VERY EXPENSIVE IN ORANGE COUNTY. Nhà ở Orange County đắt lắm, nhưng cố gắng thì vẫn mua được. Dĩ nhiên chúng ta không kể những căn nhà chỉ cần băng ngang qua đường là có thể rửa tay bằng nước biển Thái Bình Dương.

Hai câu thí dụ ở trên có thể chấm câu ngay, không cần phải nói gì thêm mà người nghe vẫn hiểu ngay là trời rất nóng và nhà cửa ở Orange County rất đắt.

Nhưng với SO và TOO thì khác.

Thí dụ nói IT IS SO HOT thì nghe có vẻ chưa đủ. Chúng ta còn chờ nghe một điều gì khác theo sau chi tiết trời nóng đó.

QA

QA nhớ là hình như phải thêm THAT và một mệnh đề phụ nữa thì câu mới có đầy đủ ý nghĩa. QA nhớ có nghe con trai , xưa nay vẫn làm biếng đi tắm lắm, bữa hôm trời nóng đã phải nói IT WAS SO HOT THAT I HAD TO SHOWER THREE TIMES… Không biết nói vậy có đúng không.

BBT

Đúng chứ sao không. Những câu có SO thì thường theo sau là một mệnh đề bắt đầu bằng THAT. Đây là cách đặt câu tương đương với câu tiếng Việt khi chúng ta nói QUÁ ĐẾN NỖI. Thúy cho nghe hai thí dụ với SO…THAT coi.

LÃM THÚY

THE BOOK WAS SO GOOD THAT I FORGOT ABOUT DINNER.

MY SON WALKS SO FAST THAT I CAN NOT CATCH UP WITH HIM.

BBT

Còn QA?

QA

THE BOY LIVING NEXT TO US IS SO BIG THAT HE TOTALLY BLOCKS THE FRONT DOOR.

IT WAS SO COLD THAT THE CAR COULD NOT START.

BBT

Cám ơn hai cô. Nhớ là nếu dùng SO thì nên có một mệnh đề phụ đi theo sau. Nhưng nếu muốn, bỏ THAT đi cũng được. Ý nghĩa của câu vẫn không thay đổi. Thí dụ hai câu của Lãm Thúy có thể nói ngắn lại như thế nào?

LÃM THÚY

THE BOOK WAS SO GOOD I FORGOT ABOUT DINNER.

MY SON WALKS SO FAST I COULD NOT CATCH UP WITH HIM.

BBT

Còn QA?

QA

THE BOY LIVING NEXT TO US IS SO BIG HE TOTALLY BLOCKS THE DOOR.

IT WAS SO COLD THE CAR COULD NOT START.

BBT

Chúng ta dùng TOO trong trường hợp quá độ , quá độ đến nỗi chúng ta không thể làm được, không làm sao giải quyết được, giàn xếp được.

Cách đặt câu với TOO là như thế này: IT IS TOO HOT TO JOG. TO JOG là một INFINITIVE, một động từ nguyên mẫu có TO đằng trước. Và tuy chúng ta không thấy NOT ở đâu, nhưng việc mà động từ INFINITIVE gợi ý đã KHÔNG XẨY RA. Trời quá nóng để chạy bộ tức là không có việc chạy bộ diễn ra. QA cho hai thí dụ với TOO coi.

QA

IT IS STILL TOO EARLY TO SHOP FOR CHRISTMAS.

THE MAN IS TOO OLD TO JOIN THE ARMY.

BBT

Mời cô Thúy.

LÃM THÚY

IT IS TOO EXPENSIVE TO LIVE IN TOKYO WITH MY BUDGET.

SENATOR JOHN McCAIN IS TOO OLD TO RUN IN 2012.

QA

Tuần qua chương trình nhận được thư của một thính giả yêu cầu ông thầy giảng cách dùng chữ EVER trong tiếng Anh.

BBT

Cô QA hay vị thính giả này đã quá cẩn thận đây? TOO CAREFUL nên phải nói rõ là cách dùng EVER trong tiếng Anh. Tôi nghĩ tiếng nước khác chắc không có chữ EVER đâu. EVER là một ADVERB, một ADVERB OF FREQUENCY cho chúng ta biết động từ trong câu có xẩy ra thường xuyên không, hay ít khi, hay họa hoằn hay không bao giờ.

EVER nghĩa là bao giờ, thường được dùng trong câu hỏi.

Thí dụ DID YOU EVER LIVE IN TOKYO?

QA

Thưa anh, trạng từ này có thể dùng với tất cả các thì, các TENSES hay chỉ được dùng trong một số thì mà thôi?

BBT

Cô QA hỏi câu rất hay. Chúng ta có thể dùng EVER với các thì PRESENT, PAST, PRESENT PERFECT, PAST PERFECT nhưng không dùng với các thì tương lai (FUTURE) và liên tiến (CONTINUOUS TENSES).

LÃM THÚY

Nhưng thưa anh, không dùng FUTURE thì làm sao diễn tả ý nghĩa EVER, có bao giờ trong tương lai? Thí dụ trong hai câu Kiều : Mai sau dầu có bao giờ/ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này… nếu dịch sang tiếng Anh mà không được dùng FUTURE thì dịch thế nào?

BBT

Có một số trường hợp chúng ta không thể dùng động từ trong thì tương lai, mà dùng thì hiện tại, nhưng ý nghĩa thì vẫn là tương lai. Thí dụ WHEN I RETIRE, không bao giờ nói WHEN I SHALL RETIRE… Ngoài WHEN, còn AS SOON AS, BEFORE, AFTER… cũng không dùng với thì tương lai. Cứ dùng PRESENT TENSE, ý nghĩa vẫn là FUTURE như thường…

Hai câu Kiều có thể dịch tạm như thế này: THEN ONE DAY, IF YOU EVER REKINDLE THE INCENCE BURNER AND RETUNE THIS MOON GUITAR… Không dùng FUTURE mà ý nghĩa tương lai vẫn có ở đó.

Trở lại với EVER. Chữ EVER này được dùng trong những câu hỏi để làm cho nghĩa mạnh hơn.

Bỏ EVER đi câu hỏi vẫn có nghĩa. DID YOU LIVE IN TOKYO? vẫn đầy đủ ý nghĩa ông có sống ở Tokyo không? Nhưng thêm EVER vào thì câu trở thành ông có bao giờ sống ở Tokyo không? Câu sau ý nghĩa mạnh hơn. Người hỏi có vẻ nghi ngờ, thêm EVER vào để nhấn mạnh, xin ngôi thứ hai nói rõ hơn, đã có hay không bao giờ.

LÃM THÚY

Như vậy, EVER chỉ được dùng trong câu hỏi thôi sao? Chúng ta không thể dùng nó trong câu xác định (AFFIRMATIVE)?

BBT

Đúng và không đúng. Khi hỏi DID YOU EVER LIVE IN TOKYO? Câu trả lời xác định không thể nói : YES, I EVER LIVED IN TOKYO. Phải nói YES I DID. Nhưng EVER cũng có thể được dùng trong câu xác định. Tôi sẽ trở lại trong vài phút nữa. Bây giờ nói tiếp về EVER.

Trả lời câu hỏi DID YOU EVER LIVE IN TOKYO? với câu trả lời phủ định (NEGATIVE) chúng ta dùng NEVER. Thí dụ NO I NEVER hay I NEVER DID.

QA cho nghe hai thí dụ với EVER trong thể hỏi coi.

QA

DO YOU EVER THINK OF MOVING BACK TO PARIS?

DID HE EVER STUDY IN GERMANY?

LÃM THÚY

HAVE THEY EVER MET HIM BEFORE?

HAD SHE EVER VISITED NEW DELHI?

BBT

Cám ơn hai cô. Bây giờ chúng ta sẽ nói về trường hợp EVER được dùng với một mệnh đề xác định. Đây cũng là một cách đặt câu chúng ta cần biết vì có nhiều trường hợp chúng ta sẽ phải dùng đến lối đặt câu này.

Chắc chắn hai cô thể nào cũng đã trải qua những trường hợp phải dùng đến lối đặt câu như thế. Tưởng tượng có người mời ngồi vào trong chiếc Rolls Royce Ghost máy 6 lít 6, 12 xi lanh thì phải nói thế nào cho chủ xe vừa lòng?

LÃM THÚY

Chắc phải ca cái xe bằng một câu như đây là chiếc xe đẹp nhất mà tôi đã được thấy. Nói thế nào thưa anh? Anh phải dậy Thúy và QA câu này để có khi cần phải nói còn biết mà nói.

BBT

Chúng ta dùng PRESENT PERFECT: I HAVE EVER SEEN. Mệnh đề chính luôn luôn là câu so sánh nhất (SUPERLATIVE) THIS IS THE MOST EXPENSIVE CAR.

Cả câu sẽ là THIS IS THE MOST EXPENSIVE CAR (THAT) I HAVE EVER SEEN. Bây giờ mời cô QA cho nghe thí dụ của cô với lối đặt câu này coi.

QA

THEY ARE THE MOST MISERABLE YEARS I HAVE EVER LIVED IN SAIGON.

MY DAUGHTER GAVE ME THE MOST BEAUTIFUL BIRTHDAY CARD I HAVE EVER RECEIVED.

LÃM THÚY

SHE COOKED THE MOST TERRIBLE DINNER I HAVE EVER TOUCHED.

WE HAD THE BEST WINE WE HAD EVER TASTED IN EUROPE.

BBT

EVER cũng còn xuất hiện trong những nhóm chữ (PHRASES) như thế này, luôn luôn với so sánh nhất (SUPERLATIVE). THE MOST POWERFUL CAR EVER. Câu này có thể hiểu là chiếc xe mạnh nhất (mà công ty đã sản xuất). THE MOST RUTHLESS RULER EVER. Cô QA cho nghe thí dụ của cô coi.

QA

MY BEST VACATION EVER.

THE MOST FAMOUS RESTAURANT EVER.

LÃM THÚY

THE BEST LOVED ACTRESS EVER.

THE LONGEST FILM EVER.

BBT

Còn ít phút tôi sẽ nói về một số idioms liên quan đến ngón tay, FINGERS. Thúy nói thử câu này bằng tiếng Anh coi: Nó không nhấc một ngón tay để giúp tôi. Cứ dịch từng chữ một sang tiếng Anh là đúng.

LÃM THÚY

HE DID NOT LIFT A FINGER TO HELP ME.

BBT

Đúng rồi. Lại rất IDIOMATIC nữa. IDIOMATIC là tiếng Anh dùng đặc ngữ hệt như người Anh và người Mỹ.

TO CROSS ONE’S FINGERS hay TO KEEP ONE’S FINGER CROSSED là ra dấu tay để chúc , hy vọng một chuyện tốt đẹp sẽ xẩy ra cho người kia. Thí dụ tôi sắp đi thi, cô QA sẽ nói gì với tôi nếu cô muốn mọi chuyện hanh thông, xuôi chèo mát mái?

QA

I WILL KEEP MY FINGERS CROSSED FOR YOU hay I WILL CROSS MY FINGERS FOR YOU.

BBT

Khi nói những gì gần sát ngay cạnh chúng ta, không phải kiếm đâu xa, sẵn sàng để dùng, tiếng Anh nói AT ONE’S FINGERTIPS. Thúy cho nghe thí dụ của cô đi.

LÃM THÚY

AT HIS DESK, HE HAS EVERYTHING AT HIS FINGERTIPS.

Thưa anh, Thúy biết thành ngữ TO GIVE SOMEBODY ONE’S HAND nghĩa là nhận lời cầu hôn của ai đó. Nhưng TO GIVE SOMEBODY THE FINGERS có cùng nghĩa như thế không?

BBT

Không. Hoàn toàn không. Thành ngữ cô vừa hỏi bao giờ danh từ FINGER cũng ở số ít. Không bao giờ số nhiều. Việc làm mà thành ngữ này diễn tả cũng không bao giờ nên làm. TO GIVE SOMEBODY THE FINGER (số ít) là một hành động tương đương với một câu chửi thề hết sức tục tĩu.

Qua một thành ngữ khác: TO POINT THE FINGER AT là chỉ tay buộc tội, qui lỗi cho ai đó. Thúy cho một thí dụ với TO POINT THE FINGER AT coi.

LÃM THÚY

THE GARAGE DOOR WAS BROKEN AND SHE POINTED THE FINGER AT HER BROTHER.

QA

THEY SAY IN WASHINGTON PEOPLE LIKE TO POINT FINGERS AT OTHER PEOPLE.

BBT

Còn một thành ngữ nữa tôi muốn chỉ cho hai cô. TO SNAP ONE’S FINGER AT nghĩa là khinh bỉ, không để ý tới, không quan tâm tới, bỏ qua. Thí dụ MOST YOUNG PEOPLE SNAP THEIR FINGERS AT NO TEXTING LAWS.

QA

Bài học Anh ngữ thứ 88 của chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày của Hồn Việt Television tạm chấm dứt ở đây. Chương trình sẽ trở lại trên màn ảnh Hồn Việt Television trong bài học tới. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin gửi lời chào tạm biệt quí vị.