August 31, 2016

August 26, 2019

 CÁO PHÓ

Tôi không nhớ đã đọc cái cáo phó đầu tiên hồi nào nhưng chắc không phải ở Hà Nội. Hồi ấy (trước năm 1954) ở Hà Nội chỉ có hai tờ nhật báo là tờ Tia Sáng và tờ Giang Sơn mà tôi (mới biết "đọc báo" ) cầm chúng lên, ở tuổi lên 8 hay lên 9, tôi chỉ thích xem những bức hí họa của hai họa sĩ Mạnh Quỳnh và Dzuy Nhất cùng với những truyện bằng tranh mà phòng thông tin Hoa Kỳ cung cấp cho các báo này, trong đó có một truyện tuyên truyền chống Cộng rất hấp dẫn của George Orwell, Trại Thú Vật (Animal Farm). Thỉnh thoảng tôi cũng tò mò đọc những bản tin về chiến sự và nhờ đó, biết lơ mơ về những trận đánh ở Na Sản, Cánh Đồng Chum, Điện Biên Phủ, rồi hội chợ ở Bờ Hồ, đức Quốc Trưởng Bảo Đại đi đâu, làm gì... Nhưng những mẩu cáo phó thì không và cũng vì hình như chúng rất ít thì phải. Ngay hồi chú tôi tử trận ở Đại Đồng, Bùi Chu năm 1954 gia đình tôi cũng không đăng cáo phó trên hai tờ Tia Sáng và Giang Sơn ở Hà Nội. Có lẽ phải tới khi vào Sài Gòn khoảng cuối những năm 50 tôi mới đọc những thứ tin này.

Tôi không biết những tờ báo tiên phong của nền báo chí Việt Nam có đăng những cáo phó không, nhưng khi tôi biết đọc "nhựt trình" thì chúng đã có rồi, khoảng những năm cuối của thập niên 50 ở Sài Gòn. Rất tiếc cụ Vương Hồng Sển không còn nữa để hỏi cụ.

Phải tới khoảng giữa những năm 50 tôi mới tìm đọc chúng. Cáo phó là thông báo về sự qua đời của một người mà gia đình của người đó muốn gửi tới bạn bè và quyến thuộc. Nhưng chúng được viết theo một lối văn đặc biệt không biết ai là người đầu tiên viết xuống để sau đó được những người khác viết theo. Có thể trong lúc tang gia bối rối, gia đình không có thì giờ cho câu cú văn chương để viết mẩu tin thông báo chuyện buồn của gia đình. Thế là cứ theo những cáo phó đã đọc thấy trước và viết lại. Chính vì thế mà tôi tìm đọc chúng trên những tờ báo hồi ấy. Và cũng đó mà lần đầu tiên tôi biết những từ ngữ như vãng sinh miền cực lạc, qui tiên, phiêu diêu nơi tiên cảnh, hưởng nhan Thánh Chúa...
Bẵng đi mấy năm không ở trong nước, không đọc báo Việt ngữ, đến khi đọc lại báo chí trong nước, thì bỗng một hôm đọc thấy tên một người bạn cũ thời trung học. Người bạn này nhập ngũ sau khi hỏng kỳ thi tú tài. Sau đó thỉnh thoảng chàng trở lại trường thăm bạn bè. Có người đùa chúc chàng sớm vinh thăng lon mới. Và ít lâu sau, chàng được vinh thăng thật. Rồi xuất hiện trong những cáo phó những từ ngữ mới như truy thăng, anh dũng hy sinh, truy tặng bảo quốc huân chương với nhành dương liễu...

Thế là những mẩu cáo phó lại nghe khác hẳn những cáo phó vẫn đọc được trước đó. Và cũng từ đó, tôi chú ý đọc chúng thường hơn. Đó là trong những buổi chiều tan sở ngồi ở một quán cà phê đọc mấy tờ báo vừa phát hành. Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt thì những trang cáo phó càng nhiều tên tuổi hơn. Và tuổi tác của người chết cũng gần với tôi nhiều hơn. Có những người hơn hai hay ba tuổi, có những người bằng tuổi và có những người thua vài tuổi. Có những người chưa vợ con và có những người để lại mấy đứa con còn rất nhỏ. Đó là những mẩu cáo phó của thời chiến. Cuộc chiến càng dữ dội cuối thập niên 60 và đầu những năm 70 thi những cáo phó như thế càng đọc thấy nhiều hơn. Tuổi của những người ra đi cũng xấp xỉ tuổi của tôi hồi ấy.

Rồi bẵng đi một vài năm sống ở Mỹ, tôi bỗng thấy trong những tin cáo phó đọc thấy trên mấy tờ báo Việt ngữ, tuổi tác của những người ra đi rất gần với tuổi của mình trong hoàn cảnh không còn chiến tranh tang tóc nữa. Lác đác không còn nhiều những trướng hợp hưởng dương dưới 50 tuổi nữa mà đã được coi là hưởng thọ nghĩa là đã sống được trên tuổi 50. Rồi thoắt một cái, những cái tuổi trên 60 cũng ập tới, và nay, những tuổi trên 70 cũng trở thành rất thường. Thỉnh thoảng lại thấy tên một người bạn vừa gặp vài tháng trước.

Nhưng vẫn có một cách viết cáo phó tôi thấy rất kỳ lạ. Đó là những câu như "... đau đớn báo tin XYZ đã được Chúa gọi về..."Tôi nghĩ là được Chúa gọi về phải là một hạnh phúc, môt ân sủng thì tại sao gia đình phải đau đớn ? Tôi có đem hỏi một linh mục thì được ngài cho biết nói như vậy là không đúng. Chúa không bao giờ muốn con của người phải chịu những khổ đau. Nhưng một bữa tôi đã bị một người đàn ông phản bác kịch liệt nói rằng bài báo tôi viết đề cập tới chuyện đó là xúc phạm tới tôn giáo của ông và tôi hoàn toàn sai lầm mặc dù tôi có dẫn lờì của linh mục T.Q.T. nay đã khuất.

Mấy chục năm đọc những cáo phó từ khi những người ra đi hơn tuổi, rồi bằng tuổi và nay là những người ít tuổi hơn có khi cả chục tuổi. Một ông bạn tôi tuần trước viết cho cái e-mail và kết bằng câu "Chẳng cũng khoái ư!"
Nghe cứ như Nguyễn Hiến Lê dịch Lâm Ngữ Đường vậy.

August 20, 2016

August 20, 2016

NHỮNG MẨU NHẮN TIN

Chúng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên những trang báo Việt ngữ, có khi chúng bị đẩy vào những chỗ khuất lấp, nép cạnh những quảng cáo không liên quan gì tới những nội dung của chúng. Những quảng cáo rao bán mắm muối, thịt cá, địa ốc, tiệm ăn, nhà hàng... thì dính gì tới những mẩu nhắn tin tìm người quen ấy, như một ông thiếu uý ở một tiểu khu nào đó thuộc quân đoàn I, một người hàng xóm cũ, một người di tản từ năm 1975 tìm hai ba người thất lạc trong chuyến vượt biên bằng thuyền hồi những năm 80, muốn tìm lại một người gặp lần cuối tại đảo Galang, một người bạn tù nằm chung một góc phòng giam... Ngoài việc chúng xuất hiện trên những trang báo, chúng còn được nghe thấy trong mục nhắn tin hàng tuần của một chương trình phát thanh nọ. Mỗi lần thấy chúng, tôi cũng tò mò đọc xem có còn ai kiếm mình không. Một người bạn cũ ở Sài Gòn, thời học trung học, một quen biết thời tuổi trẻ, trong một tiệm nước bên một ly cà phê... những gặp gỡ vài ba chục năm, có khi hơn nửa đời người...

Những đoạn nhắn tin, tìm người ấy vẫn còn, tuy theo tôi nghĩ, có phần tuyệt vọng. Không biết có bao nhiêu người còn để mắt đọc những dòng nhắn tin trên những trang báo, hay đón nghe chương trình nhắn tin với thời lượng không bao nhiêu trên làn sóng phát thanh. Những lời nhắn ấy bay trong không gian không bao giờ nghe lại được nữa.

Nhưng chúng vẫn được đọc thấy, nghe thấy. Những người nhắn vẫn nuôi những hy vọng sẽ tìm được những người cũ, không biết đã trôi giạt về những chân trời góc biển nào, trong khi Kiều thì cũng chỉ luân lạc có 15 năm. Những thất lạc của chúng ta thì dài hơn nhiều. Mười năm, hai chục, ba chục năm, hơn nữa cũng có. Những chi tiết có khi rất rõ như địa chỉ của căn nhà cuối cùng, người ấy có mấy anh em, con cái tên là gì, cha mẹ làm gì, cả những cái tên gọi thân mật ở nhà, xuống thuyền vượt biên tháng mấy, năm nào hay di tản ngay trong những chuyến đầu của cuối tháng 4. Cũng có khi nghe được tin tần chót từ Mỹ ở tiểu bang thành phố nào rồi dọn đi một địa chỉ khác và bặt tin luôn...

Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Những địa chỉ đầu tiên hay cuối cùng ấy không mấy người con nhớ. Cuộc sống hối hả và thay đổi, di chuyển quá nhiều làm sao còn lúc nào ngồi xuống moi móc trí nhớ ra những tháng ngày cũ. Nhưng ngần ấy thứ thỉnh thoảng vẫn trở lại. Người em bặt tin trong một trận đánh hồi tháng 3, gia đình vẫn hy vọng chỉ mất tích, đứa con vượt biển đã thoát, người đàn ông đi tù về cũng vượt biển từ năm 85 rồi sau một hai lá thư là bặt tin từ đó...

Nhưng cũng từ đó đã bao nhiêu chuyện xẩy ra, bao nhiêu đổi thay cho cả hai phía, người nhắn cũng như người được nhắn. Người được nhắn có khi chỉ để lại tấm thẻ bài trong một góc rừng nào đó, hay một ngôi mộ không tên ở một hòn đảo xa vắng của Indonesia, Malaysia, Thái không chừng. Đứa con có thể đang sống đâu đó ở nước Mỹ và đã lâu không còn nhớ về gia đình cũ của nó, mà đời sống của nó củng chẳng có bao nhiêu chuyện đáng để kể cho cha mẹ, anh em ở nhà. Người đàn ông vượt biển có thể đã có những liên hệ mới, ràng buộc mới nên không thể liên lạc lại với người vợ và những người con của đời sống cũ. Cũng có thể có những lúc quả tim lỡ một nhip đập, và ý tưởng nhắn một mẩu tin tìm người nhen nhúm nhưng rồi lại thôi. Cũng có những mẩu nhắn tin chỉ nghe qua cũng hiểu được nửa chuyện. Như lời nhắn tìm cô em của một người bạn hồi ấy hay đi qua nhà nay "duyên ghé về đâu" (như lời bài hát của Lê Trọng Nguyễn). Những năm tháng xa cách nay đã dài hơn cả thời gian hai người tình già của Phan Khôi là 24 năm rất nhiều. Hai bên chắc nay đều đã lục tuần cả. Tìm được thì làm gì đây ?

...Khi tôi ngồi xuống ở bên em
Mở tập thư xưa đọc trước đèn
Vẫn ngọn đèn mờ trang giấy lạnh
Tiếng mùa thu lạnh tiếng mưa đêm...
(
Đinh Hùng)

Hay là như Lý Thương Ẩn trong Dạ Vũ Ký Bắc, đêm mưa gửi về bắc:

Quân vấn qui kỳ vị hữu kỳ
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì
Hà dương cộng tiễn tây song chúc
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì

Tạm dịch:

Người hỏi ngày về, chưa thể nói
Ba Sơn mưa tối ngập ao thu

Bao giờ khêu lại tim nến cũ
Kể chuyện bên song vợi nỗi sầu


Nhưng những mẩu nhắn tin vẫn thỉnh thoảng còn để nuôi tiếp những hy vọng đã từ gần nửa thế kỷ.

August 6, 2016

August 5, 2016

FASHION SHOW

Em thua tôi 10 tuổi, nên có gọi bằng "em" thì cũng đúng. Đọc tiểu sử của em thì em gốc gác người Bến Tre, lên Sài Gòn ghi tên học ở Đại Học Văn Khoa năm 1973 nhưng chỉ khoảng hơn một năm sau, việc học của em bị gián đoạn vì "chính quyền Cộng Hòa Miền Nam kiểm soát toàn bộ miền Nam". Nói rõ hơn là khi Cộng Sản chiếm miền Nam. Như vậy, theo tiểu sử của em trong Wikipedia, em lớn lên và được cho học hành trong vùng kiểm soát của Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vào rừng chích đít tầm bậy tầm bạ rồi nhận bừa là có bằng cử nhân luật như thằng Ba Ếch hay những thứ ngợm nhảm nhí khác ở Việt Nam bây giờ.
Em vào trường Văn Khoa trên đường Cường Để, khi tôi không còn thỉnh thoảng ghé ngang để...tìm một tà áo:
Ta nhớ ngày xưa cuối giảng đường
Mắt đầy sao và áo đầy hương
Em đem trời đẹp vào trong lớp
Ta thấy trong hè bỗng đã xuân...
Ta thấy chiều rơi trên hành lang
Nắng loang vệt nhỏ dưới sân trường
Em đi chiều bỗng vàng trên mái
Tà áo bâng khuâng lá ngập đường
...
Như vậy là tôi không thấy em trong những giờ của các giáo sư Nghiêm Thẩm, Nguyễn Khắc Hoạch, Nguyễn Khắc Kham, Vũ Khắc Khoan...
Rồi em theo Việt Cộng, không còn học Văn Khoa nữa.
Em về Bến Tre, đúng là "không có chó, bắt mèo ăn...", em đi làm cho cách mạng, từ từ leo dần lên một số những chức vụ không lấy gì làm vẻ vang cho lắm như phó phòng, trưởng phòng... toàn những việc không dính gì tới những môn học (chưa chắc em đã ghi danh) ở trường văn khoa, rồi và cuối cùng là chủ tịch cuốc, không phải là QUỐC hội.
Em tên là Nguyễn thị Kim Ngân, không biết có phải là tên thật hay không, nhưng phải nói ngoại hình, em trông khá hơn nhiều em khác, tên cũng tối tân hơn cái kiểu em Tòng thị Phóng nhiều.
Mới đây, nói rõ hơn là sau khi em được bọn đười ươi đưa lên làm chủ tịch cuốc hội, em bỗng... nổi cộm hẳn lên, với cảnh em tuyên thệ nhậm chức. Em mặc một chiếc áo dài rất hoa lá cành, giơ một tay lên thề, tay kia đặt trên một tập giấy gói xôi (?), phía sau có ba đười ươi cười toe toét... Người ta chú ý ngay đến chiếc áo thêu hoa hoét em mặc, Đó là một chiếc áo dài rất kiểu cọ, không hề giống như những chiếc áo của mấy em đười ươi khác. Áo em mặc có cổ thấp, vai raglan, mầu sắc tươi tắn hoa hòe hoa sói tưng bừng, khiến phe chợ Đồng Xuân phát điên lên vì ghen tức.
Và cũng từ đó, em xuất hiện nhiều hơn, lần nào cũng áo dài kiểu cọ rất dã man, cứ như vừa đi vừa ưỡn ẹo "la plus belle pour aller danser..." không bằng. Những chiếc áo em mặc đều được may khá đẹp, trước ngực có thêu hay vẽ như những chiếc áo của các buổi trình diễn thời trang áo dài. Thôi thì đủ kiểu cổ cao, cổ thấp, cổ thuyền... nhưng vẫn phải là tay raglan mới được.
Thế là những kiểu áo kiểu đồi trụy mà dép râu nón cối thù ghét của thời Ngụy được cho vùng lên, sống lại sau khi bị cấm đoán, cắt nghiến cái vạt đi cho đúng nét đẹp cách mạng lại xuất hiện ở em. Người ta nghĩ có thể trong những ngày ở trường Văn Khoa đã có những lần em dõi mắt trông vời những chiếc áo tiểu thư Sài Gòn, nên bây giờ em phải mặc cho bằng được những chiếc áo đầy nét đồi trụy đó. Nhưng những chuyện như vậy thường hay đi những bước quá độ. Em mặc áo dài kiểu cọ lia chia. Mỗi lần xuất hiện là lại phải một chiếc áo với một design mới, cho dù là để cho cá ăn cho Obama tởn hồn hay vài ba dịp khác. Nhưng gần đây, em thừa thắng xông lên khiến em lộ nguyên hình một con nhà quê bầy đặt học làm sang nhân dịp em xuất hiện cạnh mấy đười ươi đực trong buổi lễ thương binh liệt sĩ. Trong khi mấy đười ươi đực mặc Âu phục, ca vát thì em chơi nguyên một quả áo dài đỏ loét hoàn toàn không thích hợp trong một dịp cần một (chút) không khí trang nghiêm. Em lại chơi một quả fashion show trình diễn thời trang cho bõ những ngày cơ cực. Em không hề biết trang phục cũng phải cho hợp thời và đúng lúc: không phải lúc nào cũng có thể y phục giống như mọi lúc. Chức vụ đứng đầu cuốc hội của em không cần phải diêm dúa, lòe loẹt như thế, huống chi khi xuất hiện trong những dịp cần trang nghiêm. Em có thấy quần áo của tổng thống Đại Hàn chưa? Đâu phải lúc nào tổng thống Phác Cận Huệ cũng một chiếc hanbok lụa đầy mầu sắc đâu. Hay Indira Gandhi trong chiếc sari tha thướt, hay Margaret Thatcher, hay Hillary Clinton, Golda Meir...

Càng kiểu cọ càng hố là vậy. Bớt lại đi chứ em! Hay là hồi xuân hơi... muộn?