January 28, 2010

January 29, 2010

Ngày 25 tháng 1 năm 2010

Bạn ta,

Phụ nữ Mỹ, thực ra, chưa hoàn toàn được giải phóng mặc dù trong phong trào giải phóng, phụ nữ Mỹ có đi những bước đầu thật.

Họ kéo nhau xuống đường hồi thập niên 60 ở New York, ở San Francisco tháo nịt vú chất thành núi (?) rồi nổi lửa đốt, một hành động hoàn toàn có tính cách tượng trưng, nói là để dẹp những gò bó (?) mà đàn ông bắt họ đeo. Không phụ nữ nước nào làm nổi chuyện đó.

Nhưng rồi sau đó, ở Mỹ, các hãng sản xuất quần áo lót, trong đó có cả những cái nịt vú, đã phát triển rất mạnh với những số bán hàng năm làm tủi hổ những con số trong những bản ngân sách của một số quốc gia trên thế giới. Những tờ báo như The Washington Post, New York Times, Los Angeles Times hầu như hàng ngày đều có những quảng cáo bán các thứ gò bó (?) đó. Như thế, việc tháo bỏ những gò bó (?) đó chỉ được làm để trình diễn trong khi sự thực, phụ nữ giải phóng vẫn lén mua những gò bó (?) đó về mặc cho bõ những ngày cơ cực.

Và vì thế, nhiều việc làm đáng lẽ phải như thế kia, thì vẫn thế... nọ.

Thí dụ việc trả tiền khi đi chơi với những người đàn ông chẳng hạn. Tưởng là... huề nhau thì ai ăn nấy chi, không có trò đối xử với nhau như những ngày trước khi giải phóng, "chúng tôi" không muốn bị đối xử khác, cứ coi "chúng tôi" ngang với quí vị, không cần phải nhường chỗ cho "chúng tôi" trên xe điện, cũng không cần phải mở cửa, nép sang một bên, nhường cho "chúng tôi" đi trước. "Chúng tôi" thừa sức để làm những việc đó một mình.

Nhưng "chúng tôi", theo một cuộc thăm dò mới đây, vẫn muốn phía bên kia trả tiền khi đi chơi với "chúng tôi", và nếu phía bên kia không chịu chi thì "chúng tôi" không chơi với nữa.

Tất cả các phụ nữ trả lời cuộc thăm dò của Sara Fitzgerald thuộc sáng hội Heritage ở thủ đô Mỹ đều nói rằng người đàn ông nên trả cho buổi đi chơi đầu tiên, nếu người đàn ông mời người đàn bà đi chơi.

Chỉ trong trường hợp cuộc đi chơi đó là một thảm họa (?), thì chi phí mới nên cưa làm hai, mỗi người một nửa.

Nhưng nếu người phụ nữ là người lên tiếng mời người đàn ông đi chơi thì sao? Chuyện này càng ngày càng thấy diễn ra thường hơn. Thay vì trâu đi tìm cọc, thì cọc vùng dậy, nhắng lên đi tìm trâu vậy. Cứ ở yên một chỗ, không chịu đi bước đầu, đưa sáng kiến, trâu bỏ đi mất, rồi ngồi đó mà tiếc hùi hụi hay sao? Nhưng rủ trâu đi chơi thì cọc trả tiền hay trâu trả tiền?

Cuộc thăm dò cho thấy là trâu vẫn nên / phải trả tiền, nếu không thì chia đôi, mỗi bên một nửa.

Như vậy, thì hà tất phải đem ra tranh luận. Cứ phía các ông làm cử chỉ đẹp, thò tay ra sau đít, lấy cái bóp ra, cà cho chết cái miếng plastic đi cho rồi.

Ngay cả trong những trường hợp hai người trở thành một cặp, nghĩa là đi chơi với nhau trong một thời gian dài, thì vẫn phụ nữ là người quyết định chàng hay nàng chi tiền. Đa số những người trả lời cuộc thăm dò nói là phụ nữ không nên đề nghị trả tiền, mà chỉ nên chấp nhận một cách nhã nhặn, từ bi, nhân từ, độ lượng, khoan dung (graciously, theo từ điển Anh Việt Nguyễn Đình Hòa trang 103) để cho người đàn ông trả tiền. Và đa số phụ nữ cũng đề nghị để trả đấy, nhưng nếu người đàn ông nhét cái bóp trở lại vào túi, chấp nhận một cách nhã nhặn, từ bi, nhân từ, độ lượng, khoan dung (graciously, theo từ điển Nguyễn Đình Hòa trang 103) để cho nàng trả, thì chuyến đi chơi đó có thể là chuyến chót của hai người, và người đàn ông có thể trở thành chủ nhân ông của hãng... kẹo dưới mắt nàng từ đó.

Còn thế nào là thảm họa trong một chuyến đi chơi để cái bill được cưa làm hai mỗi người một nửa?

Thảm họa có thể là trong khi hai người đang ngồi ăn, thì một miếng rau xanh quái ác từ đĩa salad bám vào răng cửa của nàng giữa lúc nàng đang trợn mắt, trề môi xa xả chỉ trích những người bạn gái cũ của chàng mặc dù chàng không còn bất cứ một dính líu gì tới họ nữa chẳng hạn. Bữa ăn tối bị hỏng. Chai Goldwater Estate Marlborough Roseland năm 1997 khá đắt tiền của Tân Tây Lan bỗng trở thành chua lét. Chàng bèn cứ để mặc cho miếng rau nằm nguyên ở đó, không thèm kín đáo ra hiệu cho nàng lấy nó đi nữa để cười một mình trong bụng. Đó là thảm họa.

Nhưng tại sao lại bắt nàng trả một nửa cái bill trong khi miếng rau xanh dính ở răng nàng đã đem lại cho chàng nhiều sướng khoái đến như thế? Chàng phải trả chứ. Và vì thế, trường hợp nào thì chàng cũng lãnh hết.

Vì thế mà phụ nữ ở nước Mỹ vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn là như vậy.


Ngày 26 tháng 1 năm 2010

Bạn ta,

Trong một số Playboy, tôi đọc được một câu có thể dùng để phá tan tất cả các bức tường băng bất kể bề dầy ở mức độ nào, hữu hiệu còn hơn cả những chiến lược mà Tây phương đã dùng để kéo sập bức tường Berlin, chấm dứt giai đoạn chiến tranh lạnh hồi cuối thế kỷ trước.

Nhân vật chính trong truyện ngắn, tôi nhớ hình như là của John Updike, có một cách làm quen, bắt chuyện lần nào cũng thành công, mà lần nào chàng cũng chỉ dùng có câu: You smell so good... what is it?

Giản dị hết sức. Nửa đầu khen một cái đã. Nửa sau bắt đương sự phải trả lời, để sau đó, đẩy đưa câu chuyện. Mà thường thì đương sự trả lời ngay. Lý do là vì vừa được khen, đang còn sung sướng chết ngất, bị hỏi thêm một câu về cái nguyên do làm phát sinh ra lời khen đó thì phải trả lời chứ: Cô/ bà thơm lắm... mùi gì vậy?

Câu trả lời là cái tên của loại nước hoa. Aria, hay Contradiction, hay Allure... Rồi sau đó, là những chuyện khác nữa cứ từ tốn kéo ra. Lần nào nhân vật trong truyện ngắn đó của Updike cũng thành công rực rỡ. Các ông Khruschev, Brezhnev... có sống dậy cũng không thể làm hồi sinh được chiến tranh lạnh nữa.

Nhưng bây giờ, có thể lối khai mở đó sẽ không còn thành công nữa.

Khen thơm phức thì được. Nhưng hỏi mùi gì thì chưa chắc đã được trả lời. Nếu đó là thứ nước hoa không bán ở ngoài tiệm, nếu đó là thứ nước hoa được pha chế riêng cho người đang xức nó. Người bị hỏi có thể sẽ quay lại quăng ra mấy câu hỏi liên tiếp: Tại sao muốn biết? Biết làm gì? Muốn mua hả? Mua cho ai? Không nói được.

Cuộc đối thoại chấm dứt. Nhân vật của John Updike sẽ cứng họng, chịu thua không sao cứu vãn được tình hình.

Và nếu người có mùi nước hoa kỳ lạ đó muốn chia xẻ cái mùi được đặc biệt pha chế riêng cho nàng, nàng sẽ phải viết xuống giấy, ký tên cho phép như một tác giả bảo vệ tác quyền của mình, thì người kia mới mua được. Những chi tiết quái đản này tôi vừa được biết khi đọc được trong Internet một bài viết về những loại nước hoa được pha chế riêng đang được nhiều khách hàng chiếu cố.

Trò này cũng lại xuất phát từ miền tây của bạn.

Xức một mùi nước hoa mà được nhận ra cũng có thể sung sướng lắm chứ. Như trong phim Scent Of A Woman, đoạn Al Pacino trong vai đại tá khiếm thị Frank Slade ngửi và nhận ra, nói đúng tên của mùi nước hoa người phụ nữ trẻ lần đầu tiên ông gặp trong quán ăn. Nhưng trong một sở làm, ba bốn chị một hôm cùng rú lên vì thấy mấy chị kia cũng dùng một thứ nước hoa mua ở Nordstrom như mình thì không có gì vui hết. Và đó là lý do phải đi kiếm một mùi đặc biệt không ai có cho khỏi tức cái...mình.

Các phụ nữ có vẻ rất đồng ý với chuyện này, và công việc làm ăn của Sarah Horowitz, pha chế những mùi nước hoa theo yêu cầu của khách hàng, có chiều hướng đi lên. Nhưng với những cái giá khá cao, khoảng gần $300 cho mỗi 1/4 ounce perfume oil, người ta chưa thấy được cái ngày ai cũng một mùi riêng như tiên đoán của Internet.

Những người đàn ông có hai ba nơi để tặng nước hoa sẽ gặp vất vả. Mỗi nơi một mùi riêng có thể gây đủ mọi thứ phiền nhiễu cho các chàng. Không thể gửi hai ba nơi đó cùng một mùi, mùi Dona Karan trong cái chai rất kiểu cọ chẳng hạn. Hai ba cái nơi ấy sẽ đòi mỗi nơi một mùi thì phiền lắm. Làm sao hết cái mùi vừa chia tay ý thức hệ ở ga xe điện ngầm khi đến gặp cái mùi thứ nhì? Mà phụ nữ mũi tốt hơn đàn ông rất nhiều, đã tốt lại còn được chống đỡ bằng những miếng plastic (?) thì phân biệt mùi chắc phải giỏi hơn. Lập tức chàng sẽ bị quay như ông Clinton bị hạch về Monica. Không thể cứ vung ngón tay, chối bay chối biến như ông Clinton được.

Vậy thì phải làm gì để thoát hiểm?

Vạn ứng Nhị Thiên dầu. Chai dầu Nhị Thiên Đường chứ còn gì nữa. Vừa đánh át được cái mùi kia, vừa gây được thương cảm cho một người vừa trúng phải cơn gió độc, như bài học tôi học được của một trong những cha đẻ của nền ngoại giao Việt Nam, đại sứ P.Đ.L. lúc sinh thời mà tôi rất yêu quí.

Nhưng chai dầu này có thể sẽ bị dẹp, như tổng thống Nga Vladimir Putin đang tìm cách để ngăn không cho Hoa kỳ thiết lập một hệ thống phòng thủ chống phi đạn vậy. Lúc ấy, quần áo sực nức mùi phở lại là an toàn nhất...


Ngày 27 tháng 1 năm 2010

Bạn ta,

Có một động từ trong tiếng Anh để chỉ một việc chúng ta ai cũng ít nhất một lần đã làm trong đời, nhiều thì không sao đếm cho xuể, vài trăm, vài ngàn lần... vậy mà nếu có ai nhờ chúng ta dịch sang tiếng Việt, thì chúng ta sẽ lập tức gặp khó khăn ngay.

Chúng ta có thể sẽ phải diễn ra bằng nhiều chữ, chứ không thể có ngay trong tiếng Việt một chữ ngắn gọn, tương đương cho động từ to date của tiếng Anh.

Chỉ với một chữ như thế, to date, trong tiếng Việt, chúng ta sẽ phải nói là hẹn hò đi chơi với ai, hẹn ai, hẹn gặp, hẹn đi chơi với một người, thường là khác phái... như những cuốn tự điển Anh Việt mà tôi vẫn dùng.

Đó -- to date -- là một sinh hoạt của những cuộc sống bình thường mà xã hội nào cũng có, thời nào cũng có. Kiều "date" Kim Trọng, chờ Vương ông, Vương bà đi chơi, chạy tót sang đánh đàn cho cậu nghe. Cao Bá Quát cũng có "date" vài ba cô nên mới viết:

"giai nhân nan tái đắc,
trót yêu hoa nên dan díu với tình
..."

Có "dan díu" là có "date". Nhưng nói rằng họ Cao hẹn đi chơi với cô nào thì nghe kỳ quá. Cứ "date" là hiểu ngay.

"Date" là đi chơi, đi xi nê, đi ăn, đi nhẩy đầm, đi uống cà phê với một người với những toan tính dài lâu hay ngắn hạn, với những toan tính gian ác hay cũng có khi rất hiền lành.

Laura Zigman, một nhà văn phụ nữ ở thủ đô Mỹ vừa cho in một cuốn tiểu thuyết về những phụ nữ độc thân, trong đó, cô mô tả cái khung cảnh rất không thuận tiện và không dễ dàng cho các phụ nữ ở miền đông nước Mỹ.

Cuốn tiểu thuyết của cô có cái tựa rất lạ kỳ. Tôi chưa tìm được nó để đọc nên không biết tại sao nó mang cái tựa đề khủng khiếp như thế. Tác giả có cần phải đặt cho nó cái tựa như vậy không?

Cái tựa của nó là "Dating Big Bird".

Cả ba chữ đều dễ hiểu cả, đều trong phạm vi của những từ vựng học được ngay từ mấy bài đầu của bộ Anglais Vivant mà chúng ta vỡ lòng tiếng Anh trong năm đầu của bậc trung học.

Đọc nó lên thì chưa thấy gì. Nhưng cứ thử lẩm nhẩm dịch nó sang tiếng Việt mà coi. Kỳ cục không thể tả được. Cái tựa như thế thì làm sao mà dịch được. Mà không dùng những chữ mà chúng ta đã biết để dịch thì phải dùng chữ gì đây?

Dịch là "Hẹn Ði Chơi Với Chim To" chăng?

Không được ư? Không ổn ư? Thế thì dịch là gì? "Hẹn Đi Chơi Với Đại Điểu" được không? Không được. Nghe vẫn kỳ kỳ thế nào ấy. Nửa phân, nửa cỏ, nửa quê, nửa tỉnh, nửa nôm na mách qué, nửa chữ nghĩa đao to búa lớn.

Nhưng chắc chắn chuyện đi chơi, hò hẹn này không thể xẩy ra giữa một phụ nữ và một con đà điểu Phi châu, một con Emu ở Úc, con Moa ở Tân Tây Lan nay đã tuyệt chủng, mặc dù đó là những con chim to thật(?) hay gọi chúng là những con chim thật to(?) thì đều đúng cả. Cũng không thể là hò hẹn đi chơi với Big Bird, một nhân(?) vật trong chương trình Sesame Street có bộ lông vàng chóe. Người ai lại đi chơi với chim... giả bao giờ.

Vậy thì "Big Bird" trong tựa đề là chim lớn, thực ra là gì?

Chắc phải là một người đàn ông. Đó là tên gọi thân mật của ông ta? Là đặc điểm của ông ta? Là một hành động nhìn nhận và nói lên sự khác thường của ông? Là một lời khen ngợi? Là một lời cảnh cáo?

Bạn thấy cái tựa sách ghê chưa? Bằng ấy thắc mắc cứ quay cuồng trong đầu tôi từ mấy hôm nay, từ khi cuốn sách được đề cập phớt qua trong tờ Washington Times cách đây khoảng năm hay sáu ngày. Tôi phải tìm đọc nó trong cuối tuần này. Hy vọng tìm được trong các tiệm sách lớn ở đây, vì nơi tôi ở không phải là Stockport, một thị trấn ở tây bắc nước Anh, nơi danh từ "bird" bị cấm dùng để chỉ bất cứ một cái gì khác hơn là các giống có lông vũ, có cánh, hai chân, biết bơi hay biết bay.

Tôi hy vọng tác giả Laura Zigman không nói về những con chim này. Nhưng như vậy thì ghê quá. Mới đọc qua cái tựa đã mặc cảm tự ti cùng mình rồi, đọc xong, thấy càng thua kém thì làm sao sống nổi với đời?


Ngày 28 tháng 1 năm 2010

Bạn ta,

Theo đoạn tin ngắn tôi vừa đọc được, thì phụ nữ Mỹ sắp có thêm được một sản phẩm mới để giúp họ làm đẹp, trong khi những người đàn ông ở Mỹ cũng sẽ bớt khó chịu khi thấy vợ lại tiêu thêm một số tiền nữa để mua thêm mỹ phẩm chất đầy một góc nhà, biến cái góc thành một cái tiệm chạp phô.

Một công ty mỹ phẩm của Hòa Lan vừa phát triển được một cách trồng một loại rong đặc biệt để dùng trong việc chế tạo son môi, kem bôi mặt và dưỡng da. Loại rong này rất đắt tiền và rất được ưa chuộng, nhưng trước đây rất khó trồng, và số lượng sản xuất không đủ cung cấp cho các công ty sản xuất mỹ phẩm.

Nhưng ngày nay, người ta có thể gây giống và trồng nó rất dễ dàng sau khi các khoa học gia tìm được một môi trường mới để trồng chúng. Phí tổn trồng cũng rất rẻ. Theo những tiết lộ của bản tin, thì loại rong này rất hợp với cứt lợn ướt (nguyên văn: moist pig shit).

Như vậy, một sản phẩm tưởng phải tìm đủ mọi cách để tiêu đi, tránh tạo ô nhiễm cho đất đai, và các nguồn nước uống thì nay lại được trao cho một công dụng khác.

Cứt lợn không còn bị khinh miệt, dè bỉu nữa, mà trái lại còn có hy vọng tìm lại được danh dự và giá trị là đằng khác.

Rong sẽ được sản xuất trong những đống cứt lợn ướt, cung cấp cho các hãng sản xuất mỹ phẩm để được chế tạo thành mỹ phẩm như son môi, kem bôi mặt, dưỡng da...

Những thứ sản phẩm này sẽ được bán đi khắp thế giới, sang Mỹ, sang Anh, sang Pháp. Các phụ nữ sẽ mua về dùng. Những cặp môi của các phụ nữ dùng các sản phẩm này sẽ khêu gợi hơn, da mặt sẽ mịn màng hơn, cơ thể sẽ đẹp hơn. Tất cả đều nhờ những đống cứt lợn ướt ở Hòa Lan hay ở một nước nào đó ở Âu châu. Những cây rong mọc lên từ những đống cứt lợn ướt ấy, sẽ được dùng để tô lên môi, bôi lên mặt, đắp trên tay, trên bụng, trên đùi của phụ nữ.

Và như thế, để làm đẹp, người ta sẽ làm bất cứ gì, kể cả việc đưa lên mặt những sản phẩm lấy từ những đống cứt lợn ướt. Các phụ nữ Phi châu bôi phân lạc đà lên mặt, phụ nữ Ấn bôi phân bò, và bây giờ, các mỹ phẩm xuất phát từ những đống cứt lợn được bôi lên mặt phụ nữ Tây phương.

Rồi đây làm thế nào kiếm được "môi em như mật đắng" mà Thanh Tâm Tuyền nhắc trong Dạ Khúc, hay "hy vọng thơm như má chớm đào" nơi người tình của Đinh Hùng? Hay đã tới lúc người ta phải nhắc như Hoàng Anh Tuấn: "Có đi ngang xin em đừng đánh phấn"? Làm thế nào tìm được "Mùi phấn em thơm mùa hạ cũ" hay "Em đi mắt có thơ mùa hạ / má phấn hồng in bóng phượng hoa" mà Đinh Hùng cứ nói mãi trong Đường Vào Tình Sử? Thay vào đó, chỉ còn "nhớ hồn thảo mộc lẫn mùi hương", son phấn, kem bôi mặt còn ghê rợn hơn những tảng mỡ heo được quết lên mặt của các phụ nữ Tân Ghi Nê.

Lúc ấy, Trần Dạ Từ sẽ sai bét: "Lần đầu ta ghé môi hôn / Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang..." Sẽ không có ve sầu kêu hết hồn gì hết, mà sẽ là heo con, lợn con ré lên bên tai, đòi lại đống cứt lợn ướt của chúng.

Hay tại như thế mà Nguyên Sa phải năn nỉ, "van nàng lau hết mùi son phấn / đừng để làm phai hương rượu trong"?

Tại sao người ta độc ác đến như thế? Những cái bong bóng lãng mạn cuối cùng nay bị những đống cứt lợn ướt làm nổ bung.

Nhưng biết đâu cũng có những người đàn ông rất vui vẻ khi thấy những cái nửa tốt lành hơn -- better half / better halves -- mua các sản phẩm chế tạo bằng rong mọc lên từ những đống cứt lợn ướt về bôi lên mặt. Những việc mà những người đàn ông này ao ước làm được từ lâu nay, thì chính những người đàn bà ấy tự tay làm cho họ. Hay các chàng cũng có thể mua vài lọ kem, mấy thỏi son về tặng nàng bôi cho mát mặt và kín đáo cười sung sướng?

Chẳng cũng khoái ư?


Ngày 29 tháng 1 năm 2010

Bạn ta,

Người Mỹ có thể có sáng kiến dành ngày chủ nhật thứ ba của tháng Sáu để làm ngày của những người cha, Father's Day, nhưng điều đó không có nghĩa là người Mỹ thương cha của họ hơn chúng ta thương yêu các ông bố của chúng ta.

Trái lại, có thể chúng ta thương yêu các ông bố nhiều hơn người Mỹ là đằng khác.

Người Mỹ, chỉ có trong ngày chủ nhật thứ ba của tháng sáu mới dành ra để nhớ về người cha, nghĩ về người đàn ông cho chúng ta một nửa mầm sống, để các hãng bán thiệp, ca vát, eau de cologne, sơ mi... gia tăng được số bán, và ngày Father's Day ở Mỹ cũng chỉ có từ hơn một trăm năm nay, và được tổng thống Mỹ ký một tuyên cáo nhìn nhận chính thức từ năm 1966 và cử hành mỗi năm từ năm 1971.

Trong khi với chúng ta, ngày nào cũng là ngày của cha, và người cha được nhắc, một cách đầy lo sợ cũng như một cách đầy lăng mạ không biết bao nhiêu lần mỗi ngày.

Nhắc nhiều như vậy thì người cha phải ở thường xuyên trong đầu chúng ta, ở chóp lưỡi, đầu môi của chúng ta mỗi giây mỗi phút trong những lúc thức tỉnh của chúng ta. Mà như thế, thì chúng ta tưởng nhớ, nghĩ về người cha của chúng ta cũng như của người khác nhiều hơn, thường hơn là người Mỹ, và có thể còn cả các dân tộc khác nữa mà chúng ta không biết tới mà thôi.

Những câu hô thán bầy tỏ ngạc nhiên hay lo sợ, e những chuyện không may xẩy ra cho người cha, hay cho chính mình để không còn dịp chung sống với người cha là những câu chúng ta nghĩ, nói ra, thốt lên mỗi ngày không biết bao nhiêu lần.

"Bỏ cha," "bỏ bố," "chết cha," "thấy cha..." được dùng ở đầu những câu bầy tỏ những lo lắng, ngạc nhiên như ở trên.

"Bỏ cha, bỏ bố " là chết, không còn được ở với cha, với bố nữa. "Đánh bỏ bố nó đi" nghĩa là đánh cho nó chết, cho nó không còn được sống với bố nó nữa. Rõ ràng là một lời hăm dọa, cầu mong những bất hạnh lớn nhất xẩy ra cho phía bên kia.

"Chết cha" là mong cho thân sinh của phía bên kia chết, biến phía bên kia thành một đứa con côi cút khổ đau. Con có cha như nhà có nóc. Cầu mong cho cha đối phương chết là cầu mong cho nó bị toàn những bất hạnh giáng xuống. Trong trường hợp khác như khi nói "chết cha, stock lại xuống nữa rồi!" có nghĩa là lo sợ vì một việc không may, không tốt đẹp có thể xẩy ra.

"Thấy cha" là cha nó chết, làm cho nó khổ, cho nó bỏ mạng để nó xuống âm phủ gặp cha nó.

Khi nói "đau thấy cha," hay "đau thấy tía" thì có nghĩa là đau lắm, cha chết rồi, còn chạy xuống cõi âm gặp cha để than thở. "Sợ thấy cha" có nghĩa là sợ lắm.

"Thấy cha mày nghe mày" là một câu hăm dọa, với một nửa câu được dấu đi, đáng lẽ phải nói đầy đủ là "Tao đánh cho mày thấy cha mày nghe mày", nghĩa là đánh đau lắm, đến nỗi có thể bỏ mạng

Nhiều khi, không vì lo lắng, người cha cũng được nhắc đến như trong câu hát, "... Chết cha, con ma nào đây, thằng Tây chết liền, thằn lằn cụt đuôi..."

Người cha cũng thường được nhắc đến trong những trường hợp khác như khi nói câu "bố bảo cũng không dám làm." Đây là một cách nói lên lòng tôn kính dành cho người cha, người chúng ta luôn luôn nghe lời, vâng lệnh. Việc phải khó lắm, nguy hiểm lắm người ta mới đành phải trái lời cha. Tuy trái lời, nhưng lòng tôn trọng vẫn còn. Trái lời là vì nguy hiểm hay đe dọa quá lớn mà thôi.

Người Mỹ cũng không bao giờ có một trò chơi hào hứng bằng chúng ta. Bao nhiêu người trong chúng ta thoát khỏi nỗi khổ đau khi bị những tên bạn quái ác biết được tên bố và giờ ra chơi cứ lôi tên người đàn ông chúng ta yêu quí đó ra... nói nhẹ thôi khi đi qua mặt chúng ta? Chỉ ở Việt Nam mới có trò chơi độc ác làm cho bao nhiêu đứa trẻ đau khổ suốt mấy năm trời ở những năm tiểu học.

Người Mỹ cũng không kiêng tên cha như chúng ta. Có ông bố tên là Bảo thì phải tránh cho bằng được những chữ đồng âm với "bảo" và chỉ thôi khi lớn lên và thấy được cái vô lý của nó.

Nhưng thế nào chẳng có người trong ngày Father's Day sẽ kiêng thứ nước uống còn có cái tên văn vẻ, chữ nghĩa là quốc đả phụ: nước đánh cha, tức là nước đá chanh.

Kiêng tới độ không uống nước đá chanh thì chỉ có người Việt Nam mới có thể thương bố như vậy.

Nhưng mỗi ngày, khi còn sống, còn thở, tôi sẽ nhớ người đàn ông ngày tôi còn bé hay cạ râu vào má tôi, tập cho tôi đi xe đạp, chở tôi đi bằng xe đạp lên Bờ Hồ ăn kem, cho tôi đi học đàn và học vẽ, người đã dậy cho tôi yêu sách vở, chữ nghĩa, thơ văn, viết lách... người nhiều lần tôi cũng đã làm buồn lòng không ít, người tôi bế lần cuối ra xe cứu thương để vào bệnh viện, và cũng là người sáu chị em chúng tôi đặt tay vào cái contact điện để hỏa thiêu nhục thể.

Hôm nào tôi cũng nhớ ông vô cùng.


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


(Bài số 62)

Bản chuyển tả do Quỳnh Anh thực hiện. Bài học số 62 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 2 năm 2010.

QUỲNH ANH:

Kính thưa quí vị, đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Nhã Lan, và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.

Chương trình đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống hàng ngày. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.

NHÃ LAN

Hôm nay, Nhã Lan muốn anh nói về câu này: IT IS NICE TO BE IMPORTANT, BUT IT IS IMPORTANT TO BE NICE. Tại sao lại có đại danh từ IT ngay ở đầu câu? Đại danh từ là tiếng thay thế cho danh từ. Thế thì IT thay thế cho danh từ nào đây? Nhã Lan không thấy danh từ mà đại danh từ IT làm đại diện. Tại sao tự nhiên nó lại đứng một mình như vậy được?

QA

Đúng rồi thưa anh. Chỉ có "em xinh em mới đứng một mình" được chứ ...

BBT

Huống chi là trúc. Cô định nói thế phải không? Nhưng đúng là như thế. Trúc thì nếu không mọc bờ ao hay mọc đầu đình thì phải có hai cô ngồi cạnh mới được. Câu hỏi của cô Nhã Lan rất hay. Trước hết là về ý nghĩa. Câu này nói lên một thái độ rất nên có trong đời sống. Là một nhân vật quan trọng, một VIP, một Very Important Person thì rất tốt. Nhưng là người tốt, tử tế cũng là chuyện rất quan trọng. Câu Nhã Lan hỏi đã lợi dụng tĩnh từ NICE và IMPORTANT có nhiều nghĩa để chơi chữ.

NHÃ LAN

Câu này dịch sang tiếng Việt hơi khó nhưng Nhã Lan và QA đều đã hiểu ý nghĩa của nó. Là người quan trọng, là VIP mà phách lối thì không nên. Là người tốt, tử tế cũng là chuyện quan trọng vậy.

BBT

Bây giờ tôi nói qua cấu trúc của câu. Đại danh từ IT ở đây không thay thế, không đại diện cho ai, không thế cho cái gì hết. Nó là đại danh từ chỉ trống. IMPERSONAL PRONOUN. Đại danh từ IT là một đại danh từ chỉ trống khi trước nó không có một danh từ nào.

I HAVE A CAT. IT IS VERY OLD. Đại danh từ IT trong câu thứ nhì thay thế cho CAT trong câu thứ nhất. Vì thế nó KHÔNG phải là đại danh từ chỉ trống, nó không phải là IMPERSONAL PRONOUN. Nó thay thế cho CAT để chúng ta không phải nhắc lại danh từ CAT một lần nữa.

Nhưng hai cô để ý đại danh từ IT trong các câu sau đây: IT IS VERY COLD IN ALASKA. IT RAINED ALMOST EVERYDAY LAST WEEK. IT IS BEAUTIFUL IN ENGLAND NOW.

QA

Đại danh từ IT trong ba câu này không thay thế cho một danh từ nào hết, nên trong cả ba trường hợp, IT là IMPERSONAL PRONOUN.

BBT

Cám ơn cô QA. Trong cách nói của tiếng Việt, chúng ta đổ hết cho ông Trời. Trời nóng là IT IS HOT. Trời đổ tuyết là IT SNOWS. Vì thế, người ta còn gọi nó là WEATHER IT.

Trở lại câu Nhã Lan hỏi: IT IS NICE TO BE IMPORTANT. Chính ra người ta phải nói TO BE IMPORTANT IS NICE. Là người quan trọng cũng thú vị lắm chứ. TO BE là động từ nguyên mẫu, tiếng Anh gọi là INFINITIVE. Động từ nguyên mẫu, INFINITIVE có thể dùng làm chủ từ trong một câu.

Đó là khi chúng ta nói một việc gì đó, một hành động nào đó và dùng việc đó, hành động đó làm chủ từ cho động từ đi sau. Thí dụ NÓI TIẾNG VIỆT là một việc làm.

Tiếng Anh nói câu trên thế nào đây cô NHÃ LAN?

QA

TO SPEAK VIETNAMESE.

BBT

Đúng. Thế bay giờ, tôi muốn nói rằng nói tiếng Việt là chuyện dễ, nhưng viết tiếng Việt thì khó, tôi sẽ nói thế nào cô Nhã Lan?

NHÃ LAN

Nhã Lan sẽ nói thế này: TO SPEAK VIETNAMESE IS EASY BUT TO WRITE VIETNAMESE CORRECTLY IS DIFFICULT.

QA

QA biết ban The Beatles có một bài hát tựa đề là TO KNOW HER IS TO LOVE HER. Trong cái tựa bài hát này, TO LOVE là INFINITIVE, đóng vai chủ từ SUBJECT cho động từ IS phải không thưa anh?

BBT

Đúng như vậy. Trở lại câu Nhã Lan hỏi: TO BE IMPORTANT IS NICE nghĩa là làm VIP, làm người quan trọng cũng thú vị, cũng thích lắm. Thường thì chúng ta nói như thế : Chủ từ rồi động từ, và sau đó là túc từ hay tĩnh từ nếu đi trước là động từ TO BE, TO FEEL ...Thí dụ I AM OKAY. I FEEL FINE…

Nhưng có khi chúng ta muốn nhấn mạnh vào chuyện khác hơn là chuyện làm nhân vật quan trọng chẳng hạn. Thí dụ thay vì nói làm VIP thì thú vị, chúng ta nhấn mạnh vào sự thú vị thì chúng ta đưa sự thú vị lên đầu câu: THẬT LÀ THÚ VỊ KHI LÀ MỘT NHÂN VẬT QUAN TRỌNG.

Đưa NICE lên đầu. IT IS NICE TO BE IMPORTANT. Và chúng ta có một cách đặt câu mới: IT IS + ADJECTIVE + INFINITIVE WITH TO là động từ nguyên mẫu có TO. Chúng ta có thể dùng các tĩnh từ khác nhau tùy ý. Thí dụ IT IS DANGEROUS / SAFE / INTERESTING / LATE / TOO EARLY / NECESSARY … và sau đó là INFINITIVE WITH TO tức là động từ nguyên mẫu có TO. Cô QA cho hai thí dụ với DANGEROUS và SAFE coi.

QA

IT IS DANGEROUS TO TEXT WHILE DRIVING.

IT IS SAFE TO WALK IN PICCADILLY AT NIGHT.

BBT

Đúng rồi. Nếu nói theo lối thường, không nhấn mạnh vào DANGEROUS và SAFE thì cô nói thế nào?

QA

TO TEXT WHILE DRIVING IS DANGEROUS. TO WALK IN PICCADILLY AT NIGHT IS SAFE.

BBT

Cô Nhã Lan cho nghe hai câu với LATE và NECESSARY coi đã biết dùng chưa nào.

NHÃ LAN

IT IS LATE TO GO OUT FOR DINNER AFTER TEN.

IT IS NECESSARY TO HAVE ALL THE SHOTS BEFORE GOING TO VIETNAM. Để Nhã Lan đổi những câu trên ra cách nói thông thường không dùng IT IS ở đầu câu coi đúng không: TO GO OUT FOR DINNER AFTER TEN IS LATE. TO HAVE ALL THE SHOTS BEFORE GOING TO VIETNAM IS NECESSARY.

BBT

Như vậy hai cô đã có thêm một cách nói mới để dùng. Bây giờ chúng ta sẽ dùng cách đặt câu này trong thể phủ định, NEGATIVE. Dễ lắm. Chỉ cần thêm NOT vào sau IT IS là được. Mời cô QA.

QA

IT IS NOT POLITE TO SIT WHEN TALKING TO AN ELDERLY PERSON.

IT IS NOT POSSIBLE TO WALK TO EUROPE.

BBT

Cô Nhã Lan cho nghe thí dụ của cô coi.

NHÃ LAN

IT IS NOT NICE TO BLOW YOUR NOSE AT THE DINNER TABLE.

IT IS NOT CHEAP TO LIVE IN TOKYO.

BBT

Cô QA dùng cách đặt câu này trong thể hỏi được không?

QA

IS IT EXPENSIVE TO EAT OUT IN HONGKONG?

IS IT EASY TO LEARN JAPANESE?

BBT

Cô Nhã Lan đặt cho tôi hai câu hỏi dùng IS IT …

NHÃ LAN

IS IT RUDE TO TALK WITH YOUR MOUTHFULL?

IS IT PRACTICAL TO HAVE A SUMMER HOUSE IN CANADA?

BBT

Tôi hy vọng đã trả lời thỏa đáng câu hỏi của Nhã Lan. Còn QA, hình như cô cũng có câu hỏi đặt cho tôi có đúng không?

QA

Thưa đúng. QA muốn học mấy thành ngữ về chữ HEAD. QA nghĩ chắc phải có nhiều thành ngữ với HEAD vì như anh đã nói một lần là những thứ gì gần với chúng ta nhất thì thường có nhiều idioms. Nếu không đủ thì giờ để học hết, anh dậy cho vài idioms với HEAD cũng được.

BBT

Cám ơn cô. Không cách nào chúng ta học hết được idioms trong tiếng Anh. Tiếng Anh khác với tiếng Việt ở chỗ nó đi khắp nơi trên thế giới. Ở Á châu cũng có nhiều nước nói tiếng Anh. Ở Phi châu cũng thế. Mỗi nước nói tiếng Anh lại thêm vào một số thành ngữ nên idioms trong tiếng Anh rất nhiều. Ở Mỹ, chúng ta nên biết một số idioms vì người Mỹ dùng rất nhiều idioms trong khi nói. Idioms mang lại thêm mầu sắc cho cách nói của họ.

MIND là tâm hồn, đầu óc. Khi nói ra khỏi cái đầu thì hai cô hiểu là gì nào…

QA

QA nghe mấy đứa con nói chuyện với nhau nên biết thành ngữ đó. Dịch như anh là để đùa chơi chứ ai lại nói tiếng Việt như thế. QA nghĩ đó là thành ngữ OUT OF ONE’S MIND. Thí dụ HE MUST BE OUT OF HIS MIND nghĩa là chắc ông ta điên rồi. ARE YOU OUT OF YOUR MIND? WHY ARE YOU PUTTING CATSUP IN YOUR COFFEE?

NHÃ LAN

Nhưng chỉ khác đi một chút, nghĩa không còn như trong mấy thí dụ của QA nữa. Nhã Lan biết câu này: OUT OF SIGHT, OUT OF MIND là xa mặt cách lòng phải không anh?

BBT

Kỳ lạ là sao tiếng Việt thì nói xa mặt cách lòng, tiếng Anh thì OUT OF SIGHT, OUT OF MIND. Tiếng Pháp thì LOIN DES YEUX LOIN DU COEUR. Nhân loại giống nhau như thế sao? Nhưng tiếng Anh lại nói ABSENCE MAKES THE HEART GROW STRONGER hay FONDER là sự xa cách chỉ càng làm cho tình cảm mạnh thêm.

NHÃ LAN

Danh từ MIND cũng có trong idiom này, idiom mà Nhã Lan hay phải dùng mỗi khi đi ra ngoài với hai cô con gái. Ở nhà thì chọn quần áo để mặc. Mất cả tiếng. Đi mua sắm thì chọn hết cái này đến cái kia, mầu này, mầu nọ. Đi ăn thì đọc cái menu như một cuốn tiểu thuyết. Nhã Lan cứ phải nhắc luôn miệng: COME ON… MAKE UP YOUR MIND QUICKLY… rồi lại HAVE YOU MADE UP YOUR MIND?

BBT

Cô QA cho một thí dụ với TO MAKE UP ONE’S MIND.

QA

I CANNOT MAKE UP MY MIND ABOUT WHAT TO WEAR FOR THE TRIP TO TAIWAN .

BBT

Một idiom với MIND chúng ta cũng nên biết. TO CHANGE MIND là đổi ý. Thí dụ WOMEN CHANGE THEIR MINDS EVERY 5 MINUTES.

NHÃ LAN

MISTER BUI, I THINK MEN CHANGE THEIR MINDS EVERY 2 SECONDS.

BBT

Thôi không cãi với cô nữa. Cô QA cho nghe một thí dụ với CHANGE MIND coi.

QA

LAST SUNDAY, I WANTED TIMSUM BUT I CHANGED MY MIND AND WENT FOR SUSHI.

BBT

Tôi có một người bạn, chuyện gì ông ấy cũng nói qua chuyện đàn ông đàn bà. Ông ấy có cái đầu chỉ nghĩ một chuyện.

QA

HE HAS A ONE-TRACK MIND phải không thưa anh? Con trai QA cả ngày chỉ nói có một chuyện là học cho xong cái bằng MBA rồi ra mở công ty làm ăn lớn. Mấy đứa em nó dùng idiom ONE-TRACK MIND nên QA mới biết.

BBT

Đúng rồi. TRACK là con đường. ONE-TRACK MIND là cái đầu, bộ óc chỉ nghĩ có một chiều duy nhất. Điều đó nhiều khi cũng hay chứ. Nhưng TO HAVE A DIRTY MIND thì không. TO HAVE A DIRTY MIND là đầu óc chỉ toàn nghĩ chuyện tục tĩu. Thí dụ đọc Hồ Xuân Hương mà chỉ nghĩ ra toàn chuyện tục tĩu thì rất không nên. Còn thành ngữ này hai cô cũng nên biết: TO GIVE SOMEBODY A PIECE OF MY MIND. Cô Nhã Lan, cô thử đoán xem thành ngữ này nghĩa là gì.

NHÃ LAN

Là cho ai một phần hồn của mình phải không anh?

BBT

Cho cô QA đoán thử đó.

QA

Là yêu một người nào phải không thầy?

BBT

Cả hai cô đều nhẹ nhàng quá. Thí dụ tôi mất cả một buổi để nấu một bữa ăn tối tử tế mời người bạn đến ăn. Ông ấy đến nhà, lấy đũa khều khều mấy cái rồi lôi cái hamburger trong túi ra, ngồi xuống trước cái TV xem football thì khi tôi nói I GAVE HIM A PIECE OF MY MIND, hai cô sẽ hiểu là tôi đem cái hồn của tôi cho ông ấy hay sao?

NHÃ LAN

Chắc câu ấy nghĩa là tôi cho ông ta một trận. Nghĩa là sạc cho ông một trận, nghĩa là la cho một mách.

BBT

Cám ơn cô. Nhưng chuyện ấy không bao giờ xẩy ra.

QA

Không phải ông thầy hiền mà là ông thầy không biết nấu bất cứ một món gì thì làm gì có chuyện ông thầy mời bạn đến nhà ăn để xẩy ra chuyện đó. Ông thầy nếu có nấu thì chắc sẽ mời một phụ nữ đến ăn. Mà ông thầy thì làm sao dám có chuyện trân cho nàng một chọ được.

BBT

Thế còn khi tôi nói KEEP IN MIND THAT WE WILL MEET AGAIN SAME TIME NEXT WEEK thì nghĩa là gì?

QA

Nghĩa là hai học trò phải nhớ, phải KEEP IN MIND là tuần tới cũng sẽ gặp lại cùng giờ để học tiếp.

Và thưa quí vị, đến đây là kết thúc bài học thứ 62. Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày của Hồn Việt Television đến đây xin tạm chấm dứt. Chương trình sẽ trở lại trên màn ảnh Hồn Việt Television vào tuần tới. Bùi Bảo Trúc, Nhã Lan và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị và hẹn gặp lại quí vị trong bài học tới.


CHỮ NGHĨA CHÚNG TA


Ông Sáu Mỹ Tho, Santa Ana, California

Tin nhàn thực ra phải là tin nhạn hay nhạn tín mới đúng.

Nhạn là con ngỗng trời, không phải con chim nhạn trong tiếng Việt (swallow/ hirondelle).

Tin nhạn là điển Tô Vũ đi sứ Hung Nô bị chúa Hung Nô giữ lại, đầy đi Bắc Hải suốt 19 năm sống trong cảnh tột cùng khốn khổ. Tô Vũ vẫn giữ một lòng trung thành với vua Hán. Đến khi Hung và Hán hòa với nhau, vua Hán xin cho Tô Vũ về nhưng chúa Hung Nô nói là Tô Vũ đã chết. Vua Hán không tin, nói với chúa Hung Nô rằng có bắn được một con ngỗng chân có buộc một lá thư của Tô Vũ viết nói là còn sống đang bị lưu đầy. Chúa Hung Nô tin là thật liền thả cho Tô Vũ về. Từ đó, tín nhạn được dùng để chỉ việc gửi tin tức.

Nhàn là chữ đọc trại ra từ chữ nhạn. Trong chữ Hán, nhàn (dấu huyền) không có nghĩa là con ngỗng.

Cũng có khi thay vì tin nhạn, nhạn tín, người ta còn dùng những chữ tin sương, tin chim hay tin hồng. Hồng cũng có nghĩa là con ngỗng trời.

Hồng hộc là ngỗng và thiên nga.

Vằn thắn, hoành thánh chính ra phải là hồn đồn. Hồn là món thịt viên gói bột.

Hồng Lâu Mộng là tên bộ tiểu thuyết của Tào Tuyết Cần (Tào Triêm), một tiểu thuyết gia đời nhà Thanh, giữa thế kỷ 18. Bộ truyện có 120 hồi. Tào Tuyết Cần viết được 80 hồi thì chết. Đoạn sau, gồm 40 hồi do một người khác viết cách đó 20 năm. Hồng Lâu Mộng kể mối tình của hai anh em con cô con cậu ruột là Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc. Truyện được coi là một trong tứ đại danh tác của văn học Trung Hoa nhưng lại cũng bị nhiều người coi là dâm thư.

Bản dịch tiếng Anh là Red Chamber Dream có thể mua qua Amazon.com.

Ông Minh Quang, Seattle, Washington

Tên thành phố Seattle của ông thực ra là tên của một người da đỏ, tù trưởng bộ lạc da đỏ Suquamish. Chính ra, tên ông là Sealth nhưng những người da trắng lập nghiệp tại đó gọi ông là Seattle trong những dịp buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa hai bên. Các nhà buôn da trắng dùng tên của ông để đặt cho một thị trấn thương mại mà họ lập ra hồi những năm 1850, và sau trở thành Seattle của tiểu bang Washington.

Món First Lady là món sườn (spareribs) như tên gọi tại các tiệm diner. Có thể vì bà Eva, người đàn bà đầu tiên của nhân loại được tạo thành từ một chiếc xương sườn của ông Adam. Đây là một tiếng lóng thường nghe thấy trong bếp của những tiệm diner.

Cô Thanh Nguyên, Orlando, Florida

Speaker là cái loa.

Speaker of the House là chủ tịch hạ viện.

Spokesman, spokeswoman, spokesperson là phát ngôn viên.

Announcer là xướng ngôn viên.

Newsreader là người đọc tin tức cho một đài truyền thanh hay truyền hình.

Anchor là người phụ trách chương trình tin tức cho một đài truyền thanh hay truyền hình, vừa làm công việc của một emcee (host/ hostess) giới thiệu toàn thể chương trình tin tức, vừa đọc tin.

News writer là người viết tin. Copy writer là người viết tin, viết quảng cáo cho báo hay đài phát thanh, truyền hình.

Phạm Nhuận, tác giả những bài thơ do Tôn Nữ Đồng Khánh và Phan Ni Tấn phổ thành nhạc hiện sống tại Maryland, gần thủ đô Washington. Phạm Nhuận làm thơ hay, nấu ăn rất giỏi. Ông sinh tại Vỹ Dạ, Huế. Tác phẩm đã in của ông là Mặt Trời và Giòng Sông (Ca Dao 1970)

Sau đây là bài Có Hề Chi Vàng Một Chút Rong Rêu

Mưa tắm gội cho đời sông được mới
Gót em đi mùa thoa nhẹ chút hồng
Lòng ta đây cung đàn mùa say tới
Có hề chi vàng một chút rêu rong

Chim cứ hót cho đời chim rộng mãi
Trời bao la dù chút lá cội ngồn
Ta cứ thế mà yêu không ngần ngại
Bởi biết đời chỉ là gọt sương buông

Ta còn yêu như sông kia còn chảy
Thả xuống đời từng giọt rượu long lanh
Như trong sông trăng kia còn để lại
Những chút vàng phai quá không đành

Hãy cứ cho thêm, hãy còn cho mãi
Mai ta đi nào kịp vẫy tay chào
Hãy cứ như chim quên không buồn mỏi
Đã hót cho đời những tiếng thanh tao

Bài thơ trên đã được phổ nhạc và được Khánh Ly thu thanh cùng với mấy bài khác như Càn Khôn Ơi Xin Rót Rượu Giùm Ngay…