December 27, 2015

December 27, 2015

RESOLUTION (29/12/2015)

Một câu hỏi người ta hay hỏi nhau là cái gì ở Mỹ có đời sống ngắn nhất. Câu trả lời nhiều người đưa ra và cũng nhiều người đồng ý là các toa xe điện mới và sạch sẽ của hệ thống xe điện ngầm ở New York. Các toa xe điện mới này có một đời sống rất ngắn: chỉ sau vài tiếng đồng hồ sau khi ra khỏi nhà máy và được đem sử dụng là chúng được phủ đầy kín ngay bằng những graffiti nhảm nhí cùng với những nét vẽ rùng rợn của các nghệ sĩ đường phố của thành phố New York, thành phố không bao giờ đi ngủ này.
Thế còn cái gì có những đời sống dài hơn những toa xe điện này một chút, một chút xíu thôi? Tôi chắc đông đảo sẽ trả lời rằng đó là những điều tâm nguyện, những quyết tâm mà người Mỹ viết xuống mỗi cuối năm. Thực ra thì chẳng riêng gì người Mỹ làm công việc này, mà gần như ai cũng làm. Thí dụ sáng  sớm mai thức dậy, chính chúng ta cũng tự hứa với mình là sẽ làm cho xong một số việc cần làm trong ngày. Những lời tự hứa ấy đôi khi chúng ta làm được và cũng có những lần không thực hiện được đầy đủ. Làm được thì tốt, không làm được thì, theo tôi, cũng... chẳng sao cả.
Trong những ngày cuối năm sắp bước qua năm mới, rất nhiều người chúng ta sẽ ngồi xuống viết những điều tâm nguyện, quyết làm cho bằng được trong năm mới. Có thể là diet để xuống một ít cân, lo cho sức khoẻ nhiều hơn, bỏ thuốc lá, chừa rượu, bớt cà cái thẻ mua chịu, ít đi shopping... Nhưng chỉ vài ba ngày, có khi mấy tuần sau, hay dăm ba tháng sau là đâu lại vào đó: vẫn hút mỗi ngày một bao thuốc, uống một sâu bia, trông thấy cái treadmill là như bò thấy nhà táng...
Như Kiều đã có lần thú nhận với Kim Trọng về tiếng đàn của mình"...rằng quen mất nết đi rồi..." nên có viết xuống những điều tâm nguyện, những cam kết với chính mình thì rồi cũng chẳng đi đến đâu. Viết xuống những điều tự hứa với mình thì vẫn viết nhưng có làm được đúng những cam kết ấy hay không thì lại là chuyện khác. Nên năm nay tôi cũng vẫn lại cam kết tâm nguyện rằng:
Mỗi ngày sẽ chỉ uống một chai nước cốt nho lên men, thứ nước mầu đỏ thẫm tục gọi là Cabernet Sauvignon, hay Pinot Noir... mà khi ánh sáng chiếu qua cái ly đựng nó thì hết sức đẹp.
Không để ý tới những người không làm được gì cho mình nhưng lại luôn luôn có ý kiến về những việc mình làm.
Tử tế với chính mình.
Không bỏ quên bất cứ một niềm vui nào cho dẫu niềm vui thỉnh thoảng cũng bỏ quên chúng ta.
Tin rằng Khổng Tử không phải lúc nào cũng đúng.
Thời biểu làm việc mỗi ngày là thứ cần phải theo cho thật đúng, lâu lâu phải quên nó đi.
Không làm nô lệ cho cái đồng hồ nữa.
Cà phê là thứ không thể đếm được nên không đếm những ly cà phê uống trong ngày.
Thịt đỏ không làm chết người nên phải tử tế với nó. Nên yêu và thỉnh thoảng nên thưởng thức những cái tatar steak máu chẩy ròng ròng.
Đời sống quá ngắn không nên uống vang dở và rẻ tiền.
Không cho dù chỉ một tràng pháo tay mỗi khi emcee năn nỉ, khẩn khoản xin.
Mỗi sáng đọc báo đều hy vọng trang cáo phó có tên của mấy tên chóp bu ở Hà Nội.
Tin là con ranh con Nguyễn Thanh Phượng đẻ đứa con sắp tới sẽ là quái thai.
Cầu mong những đứa như Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh... sớm ra đi cho đỡ bẩn quả đất này.
Xin cho Michelle Obama xinh một chút xíu.
Mong cặp giò Hillary Clinton được thon thả để nàng khỏi phải mặc pant suit vì nhiều người trông sốt ruột lắm rồi.
Tin những điều đọc thấy trong face book đều là sự thật.
Không ghét cay ghét đắng hai chữ "chia sẻ" hay "sẻ chia" nữa mặc dù vẫn không dùng chúng.
Nghĩ là Nguyễn Thanh Phượng càng béo càng đẹp giống con mẹ nó.
Tin là Nguyễn Tấn Dũng quả thật có bằng cử nhân Luật mặc dù không biết nó học ở đâu và hồi nào.
Cố gắng cười theo khi mấy emcee pha trò vô duyên chưa nói đã cười.
Cố chải mái tóc cho giống tóc của Donald Trump.
...
Cầu mong ơn trên giúp làm được những điều tâm nguyện viết ở trên. Nếu không làm được thì cũng... chẳng sao cả.

December 18, 2015

December 18, 2015

 BẤT THÂN THIỆN VỚI NGƯỜI GIÀ
"User friendly" là những từ ngữ xuất hiện cách đây không lâu lắm. Hai chữ đó có nghĩa là dễ sử dụng, là ai cũng dùng được, không khúc mắc đòi hỏi những hiểu biết nhiều về kỹ thuật, nhất là các loại máy tính, hay các thứ sản phẩm sử dụng kỹ thuật cao. Các sản phẩm được xếp vào loại "user friendly" là chúng "thân thiện" với người dùng thay vì làm khó người dùng. Trong rất nhiều trường hợp, người dùng càng trẻ, thì các sản phẩm hi-tech này càng thân thiện thì phải. Không tin cứ nhìn lũ con cháu nhỏ trong nhà là thấy liền. Những bàn tay nhỏ thoăn thoắt lúc mổ, lúc gạt trên mặt những chiếc iPad, những chiếc iPhone, hay những bàn phím máy điện toán cũng phải đồng ý. Tuổi trẻ được ưu đãi rất nhiều, trong khi những thành phần cao tuổi thì đọc bao nhiêu lời chỉ dẫn rốt cuộc vẫn lại phải chịu thua chờ hỏi mấy đứa cháu nội ngoại.
Mới đây tôi còn nhận ra thêm một điều nữa, đó là có rất nhiều thứ không thân thiện với người cao niên chứ chẳng phải chỉ những cái máy điện toán, những cái iPhone hay iPad. Ngay cả những thứ không kỹ thuật cao chút nào cũng làm khó những người già.
Không còn là tuổi 17 bẻ gẫy sừng trâu nữa. Hai con số chỉ tuổi tác không nhất thiết phải là con số đảo ngược của 17 để thành 71 mới đụng đầu phải những khó khăn do những sản phẩm đó gây ra.
Mấy tuần trước, ngồi nói chuyện với một người bạn tôi mới biết chuyện của chàng cũng không khác gì chuyện của tôi: bỗng nhiên không nhớ đích xác từ bao giờ, hai bàn tay trở nên vụng về, lúng túng kỳ lạ như việc cài mấy cái nút áo cũng khó khăn, lính quýnh, luôn cả việc cởi những cái nút áo ấy cũng trở thành không dễ dàng như mấy năm trước nữa. Rồi tới chuyện buộc dây giày cũng làm khổ cái thân già này. Tôi chợt nhớ những đôi giầy dùng những miếng velcro để khỏi phải buộc giây mà vài năm trước tôi nghĩ là xấu không để đâu cho hết xấu. Bây giờ thì tôi thấy nó đẹp biết bao. Những đôi moccasin cũng không tiện như thế.
Tôi nghĩ nước Mỹ đang bỏ quên những người già nêu không nói nặng ra là người già đang bị đối xử không tốt lắm, hay nói phũ một chút là thế giới đang tuyên chiến với người già.
Thí dụ những lọ thuốc tôi phải uống hàng ngày chẳng hạn.Tất cả đều có những cái nắp "child proof" để tránh trẻ con tưởng là kẹo mở ra... ăn chơi. Mục đích thì hay lắm, đúng lắm. Nhưng một ông già ở một mình, không có con hay cháu nhỏ để phải cẩn thận thì tại sao phải làm khó cái thân già với đôi bàn tay không còn bẻ gẫy được sừng trâu nữa. Ai đời mỗi khi lấy thuốc về là phải lôi kìm búa ra hì hục mãi mới mở được mấy chai thuốc. Phải dặn cô dược sĩ mấy lần cô mới nhớ mấy đứa con đã lớn cả còn lũ cháu thì lâu lâu mới gặp, xin cô đoái thương đôi bàn tay của một người già lẩy bẩy ở một mình mà tha cho, không dùng hững cái nắp child proof nữa.
Nhưng đã hết đâu. Ngay cả những cái gói kẹo, những cái bao plastic bọc cái bóng đèn, cái kìm, cái bàn chải đánh răng, cái cắt móng tay, cái dao cạo râu... cũng được bọc lại một cách rất... kiên cố. Nhiều khi phải dùng kìm, kéo... cắt mãi mới lôi ra được. Trẻ con có đứa nào... ăn những thứ đó không? Chắc là không. Những cái bọc plastic quá chắc chắn đó chỉ làm cho chi phí gia tăng và làm khổ những người già. Và ngay cả chai nước cam mua ở Starbucks đem vào sở mỗi sáng cũng không mở được đành để ngó chơi cho đỡ buồn trên bàn chờ người mở hộ.
Tuy thế, những khó khăn đó cũng lại có những niềm vui nhỏ. Một đồng nghiệp thấy cảnh loay hoay không cài được cái nút cổ áo để thắt cái ca vát thì ghé lại cài cho. Mùi nước hoa, son phấn sao mà quyến rũ là thế!
Và sáng nay, một người bạn thương tình ghé qua, cho một cái mở chai bằng điện.Tuy mở chai rượu không kêu cái bốp một cái nhưng đỡ khổ hơn là loay hoay với cái tire bouchon từ mấy năm nay.

Già bỗng nhiên lại chân yếu tay mềm trở lại thế có khổ không...

December 12, 2015

December 11, 2015

TRẺ TRÂU

Danh từ "trẻ trâu" xuất hiện ở Việt Nam cách đây không lâu. Hai chữ này được dùng để mô tả những thiếu niên hư hỏng, ăn nói vô giáo dục, thô tục, mở miệng là chửi thề bằng những ngôn từ hết sức dơ bẩn, độc ác và tục tĩu, sẵn sàng tung chưởng giao chiến dữ dội ở bất cứ mọi nơi, trong lớp, ngoài đường. Những thành phần này xuất hiện rất nhiều ngay sau khi miền Nam đổi chủ với những đợt bộ đội, cán bộ cùng gia đình và đám dân từ miền Bắc kéo vào. Chúng gây kinh hoàng trong các lớp học ở miền Nam, cả tiểu học lẫn trung học. Không chỉ những thành phần nhỏ tuổi, mà luôn cả các sinh viên đại học, kể cả các giáo sinh sư phạm ở Hà Nội cũng ăn nói cùng một loại ngôn ngữ như thế. Chính báo chí trong nước, từ những năm 70 kể cả tờ Nhân Dân cũng lớn tiếng phàn nàn nhiều lần.

Mới đây còn xuất hiện hai chữ "sửu nhi" để gọi bọn trẻ trâu này cho có tí hơi hướm Tầu mặc dù người Tầu không hề có cách gọi này bao giờ.

Danh từ trẻ trâu được cho vào tiếng Việt chắc là để thay cho hai chữ cao bồi đã được du nhập vào tiếng Việt từ những năm 1950 ở Hà Nội, rồi cao bồi lô canh nghĩa là cao bồi nội địa chứ không phải là những anh chăn bò trong các phim kể chuyện miền viễn tây nước Mỹ. Thực ra những thứ gọi là cao bồi lô canh hồi đó cũng không mất dậy và khốn nạn như bọn trẻ trâu hiện nay. Nhiều lắm thì cũng kiếm cái áo sơ mi ca rô mặc vào, tay khuỳnh khuỳnh ăn nói hơi du côn một chút là cùng.

Trẻ trâu thì dữ dằn hơn nhiều. Bọn này thường tuổi tác khoảng 9 hay 10 tuổi cho đến 14 hay 15, bé thì không còn bé nữa, mà lớn thì cũng chưa lớn hẳn. Nhưng mức độ mất dậy thì đúng là không đợi tuổi. Gọi chung chúng là "trẻ trâu" vì chúng bị coi là những đứa trẻ thất học hư đốn, mất dậy như bọn chăn trâu chăn bò vậy. Thế là chú bé mục đồng của bài tập đọc trong bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ai cũng yêu quí bỗng nhiên bị làm bẩn đi rất nhiều vì hai chữ trẻ trâu ngày nay ở trong nước.

Với sự phổ biến ngày càng rộng rãi của những chiếc điện thoại di động, hình ảnh, ngôn từ của chúng được đưa đi khắp nơi chỉ trong tích tắc. Vào internet, đánh những chữ "trẻ trâu đánh nhau" là người ta có thể xem hàng mấy chục video clip thu lại cảnh chửi bới, đánh nhau kinh hoàng của chúng.


Những vụ đánh nhau như thế diễn ra gần như ở khắp nơi, không chỉ ở vài ba vùng nam hay bắc. Chỉ cần nghe những câu chửi bới của chúng là có thể biết chúng là người vùng nào ngay. Chúng dùng những đòn độc để đánh nhau: túm tóc, đá đạp vào mặt, vào bụng, nhắm những chỗ hiểm, ghì đầu xuống, lên gối... Trong những vụ bạo hành đó, người ta thấy đa số các bên là giữa các trẻ gái, ăn mặc sạch sẽ rất thời trang và gần như luôn luôn có cảnh xé quần áo của nhau giữa những tiếng cổ võ của đám đông đứng chung quanh. Đặc biệt là những đám đông đó rất ít khi can thiệp, ngăn cản những vụ bạo động đó, trái lại chỉ đứng xem, cổ võ, xúi đánh những đòn mạnh hơn, tụt quần áo của nhau và dùng điện thoại thu hình để bỏ lên face book phổ biến rộng rãi. Ngay giữa Hà Nội, một ngôi trường đã phải dựng bảng yết thị nói rõ là các học sinh không được cởi quần áo của nhau. Điều này cho thấy những vụ xé quần áo của nhau rất thường xẩy ra. Trong những vụ đánh nhau như thế, thành phần đứng xem phần lớn bao giờ cũng là các nam sinh và rất ít khi bước vào can ngăn. Các trẻ gái này vừa đánh vừa chửi những câu thông thường tưởng chỉ từ mồm miệng của những người đàn ông tục tĩu xúc phạm mẹ của nhau.

Nguyên do đưa tới những vụ bạo động ấy nhiều khi chỉ từ những mâu thuẫn nhỏ ở trong lớp, ở cửa trường. Và cũng còn cả những vụ tranh giành bạn trai của nhau. Những vụ đánh ghen như thế diễn ra giữa những trẻ gái chỉ mới 11 hay 12 tuổi. Rất nhiều vụ đánh nhau diễn ra với sự tham gia của ba bốn trẻ ở một bên nhắm vào một đối tượng hệt như cảnh đấu tố giữa sân làng...

Xem những video clip đó người ta không thể không thắc mắc chúng là những thành phần như thế nào. Nhìn quần áo, giầy dép của chúng, người ta thấy chúng là những đứa thuộc gia đình không đến nỗi túng thiếu. Có cả những thứ hàng hiệu trên người của chúng. Một số còn đeo ở cổ những chiếc khăn quàng đỏ. Biết đâu gia đình của chúng lại chẳng được coi là "gia đình văn hoá" có gắn bảng ghi rõ ngoài cửa. Chúng có thể là những "cháu ngoan bác Hồ" giao chiến ngay trong lớp, dùng bàn ghế đánh nhau trong khi trên tường treo những tấm bảng kêu gọi chúng "học tốt theo gương đạo đức của Hồ Chí Minh"...

Những đứa trẻ trâu ấy vài ba năm nữa chúng sẽ thành niên và sẽ hội nhập vào xã hội của người lớn. Lúc đó chúng sẽ là những người như thế nào?

Lại nhớ một câu trong Kiều:


Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh...



November 26, 2015

November 26, 2015

CÁM ƠN CÁI CỐI CÁI CHẦY

Trong cuốn The Importance of Living của Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch là Một Quan Niệm Sống Đẹp) có một chương đề cập tới Kim Thánh Thán, một nhà phê bình và cũng là một nhà văn nổi tiếng sống trong thế kỷ 17 dưới triều nhà Thanh. Lâm Ngữ Đường kể là trong một chiều mưa khi ngồi với một người bạn trong một ngôi miếu cổ, Kim Thánh Thán đã ghi lại những chuyện trải qua trong đời sống mà ông cho là đã đem lại cho ông những niềm vui lớn nhất trong đời. Ông kể lại được tất cả 33 điều. Đọc những điều đem lại lạc thú cho Kim Thánh Thán người ta thấy đó không phải là những gì vĩ đại cho lắm mà hầu hết chỉ là những chuyện khá tầm thường, như một cơn mưa ào đổ xuống giữa trưa hè, đống tuyết ngoài sân, mầu đỏ của ruột trái dưa hấu, xóa nợ cho một người quen, con mèo thình lình xuất hiện khiến lũ chuột phá phách phải bỏ chạy… Những chuyện đó đều kết thúc bằng một câu hô thán: “Chẳng cũng khoái ư!”
Đọc hết những điều đó, những điều mà Kim Thán Thán cho là đem lại sướng khoái cho ông, thì người ta có cảm tưởng là ông kể chúng ra như một cách cảm ơn chúng. Ông cảm ơn những điều đã đem lại cho ông những niềm vui trong đời sống. Những điều ấy sau đó được ghi chung trong bài phê bình Tây Sương Ký rất nổi tiếng của ông. Những điều ghi xuống trong lúc ngồi trong miếu nhìn mưa rơi đó được coi là một bài tản văn hay nhất cổ kim của văn học Trung quốc.
Vậy thì ngay cả những chuyện tầm thường cũng vẫn có thể là những thứ đáng để được cảm ơn trong đời sống chứ chẳng cần phải là những điều gì cao siêu khó làm, khó thấy trong đời sống.
Tự nhiên tôi nhớ mấy câu tội nghiệp này, chắc là của một cô gái nghèo ở một vùng quê nào đó:
Cảm ơn cái cối, cái chầy
Đêm đêm giã gạo có mày, có tao
Cảm ơn cái cọc cầu ao
Nửa đêm vo gạo có tao, có mày…
Người phụ nữ trẻ đầu tắt mặt tối lo công việc nhà cho chủ quần quật vẫn tìm được an ủi nơi những đồ vật vô tri gần gũi chung quanh: cái cối, cái chầy giã gạo, cái cầu ao … Cô đơn và tội nghiệp biết chừng nào. Có lẽ vì thế mà cô cảm ơn chúng.
Ngày lễ Tạ Ơn năm nay tôi cũng thấy phải cảm ơn nhiều thứ ngoài những điều vẫn tâm nguyện cảm ơn mỗi đầu ngày khi thức dậy với ngày mới chứ chẳng cần phải đợi cho đến Thanksgiving…
Thí dụ cha mẹ, gia đình chị, em, con cháu … cả những người đã ra đi, bạn bè, nước Mỹ đem cho đời sống bình an, những ân tình của bạn bè suốt chiều dài đời sống, những năm tháng đã sống trên đời này, quá khứ, tuổi thơ kỷ niệm, những cuốn sách đã đọc, những bài thơ, những bản nhạc nghe rồi vẫn còn ở lại trong trí, mùi nước hoa, mùi mái tóc, mùi cà phê buổi sáng, mùi đất khi những giọt mưa vừa rơi xuống… Bằng ấy điều phải cảm ơn mỗi lúc thoáng qua trí nhớ. Nhưng cũng còn biết bao nhiêu điều, biết bao nhiêu thứ chưa kể ra vì trí nhớ cũng có lúc mỏi mệt không tìm lục thấy.
Chẳng hạn như cái mở chai tire bouchon đang nằm trước mặt. Thiếu nó thì làm sao … giải quyết cái chai đỏ tối khuya hôm nay. Nó không là cái cối giã gạo, cái chầy, cái cọc cầu ao nhưng không có thì khổ. Hai ba giờ sang đi mua ở đâu? Hay cái hộp viễn khiển remote control giữa lúc bệnh lười vùng lên không muốn đứng dậy đổi đài khác để khỏi phải xem những đoạn pha trò vô duyên hay … lại đổi đài để tránh một cuốn phim Tầu cho đầu óc khỏi bị nhiễm độc. Hay là cái ly chân dài rót đầy Pinot Noir, Cabernet Sauvignon… bị (?) ánh sáng đèn chiếu hắt qua. Hay một bản nhạc có giọng ca thân thiết một thời. Rồi cũng phải cảm ơn cuốn sách cũ đọc từ mấy chục năm trước vừa tìm lại được và mở lướt qua vài trang là bao nhiêu thứ lũ lượt kéo trở lại, lôi theo cả những cơn mưa trong cái thành phố chưa trở lại từ gần nửa thế kỷ nay. Hay đôi mắt mà Đinh Hùng thấy “có thơ mùa hạ / má phấn hồng lên bóng phượng hoa”. Nhiều khi chỉ là một câu hát lạc lõng trong đầu cứ trở lại hoài trên môi…”Gió chiều thầm vương bao nhớ nhung…”. Hay cũng cần cảm ơn một chuyện tử tế bất ngờ đến nào đó, như tô mì Quảng treo tòn ten ở cửa trong lúc không có nhà giữa lúc đang phân vân không biết làm sao đối phó với cái ông dạ dầy khó tính đang thức giấc. Hay những giấc mơ gặp lại dăm ba người, ngửi lại được mùi hơi thở thơm của những đứa con và luôn cả mùi khai của chiếc giường trong căn nhà cũ ở Sài Gòn. Những buổi sáng chủ nhật chở chúng đi chơi, nét hân hoan trên mặt chúng, những âm thanh của thành phố không còn trở lại được nữa. Lại cũng phải cảm ơn “mảnh tàn y” còn giữ lại được như như chiếc áo thị Bằng còn gây quyến luyến cho nhà vua sau sự ra đi vĩnh viễn. Thôi cũng phải cảm ơn cái iPhone: không có nó làm sao sống.
Vậy nên hôm nay, ngày Thanksgiving, phải cảm ơn thêm những thứ vừa kể ở trên, sợ rằng vài ba năm nữa, trí nhớ bỏ đi thì làm sao nhớ lại được mà … Thanksgiving chúng.
Cảm ơn tất cả. Cảm ơn đời sống (coi vậy mà) rất đáng sống này.

November 22, 2015

November 20, 2015

 CUỘC THẢM SÁT KINH HỒN MỖI CUỐI NĂM
Năm nào cũng thế, người Mỹ, từ nhiều năm nay, đều thẳng tay thực hiện hai cuộc tàn sát bi thảm làm thiệt mạng cả mấy chục triệu sinh linh mà không hề có một tổ chức nhân đạo nào trên thế giới lên tiếng để buộc phải chấm dứt việc làm vô nhân đạo, vô ích mang đầy tính diệt chủng đó.

Trong khi đó, lễ hội chém lợn ở Tiên Du, Bắc Ninh, hay hội chọi trâu ở một số nơi tại Việt Nam thì bị nhiều tiếng nói chỉ trích kịch liệt. Còn những vụ thảm sát ở nước Mỹ thì gần như không tạo được bất cứ một sự quan tâm nào. Lễ chém lợn có tàn bạo thật, nhưng cũng chỉ hóa kiếp cho vài ba con lợn. Còn hội chọi trâu thì hai ba chục ‘ông’ trâu được nuôi cả năm, được vỗ cho béo rồi bị xúi bẩy để húc nhau một trận tanh bành mua vui cho cả mấy ngàn người xem. Những con trâu không hề thù oán nhau, không tranh chấp đồng cỏ của nhau mà cũng chẳng vì tranh nhau “ân huệ” của vài ba chị trâu nái, hay ganh ghét nhau về vẻ đẹp trai của mình, đã bị người ta bầy chuyện cho đâm nhau trí mạng rồi cuối cùng, được hay thua, cả hai đều bị phanh thây xẻ thịt bán cho khán giả ngay tại cửa vào đấu trường. Năm nào cũng diễn ra những cảnh chọi trâu kinh hoàng như thế.

Nhiều tổ chức bảo vệ thú vật trên thế giới đã lên tiếng yêu cầu chấm dứt trò giải trí dã man đó nhưng chưa có kết quả. Dẫu vậy thì cũng đã có tiếng nói chống lại. Nhưng những cuộc tàn sát hết sức vô nhân đạo ở Mỹ thì vẫn được để cho diễn ra một cách bình thường như không hề có gì xẩy ra cả. Hai cuộc thảm sát ở Mỹ đều nhắm vào loài gà tây, một sinh vật thuộc giống chim đã được thuần hóa để nuôi làm thực phẩm cho người. Nhưng nếu giết chúng để ăn thì cũng không đáng nói như khắp nơi trên thế giới người ta giết trâu, bò, lợn, cừu, dê, gà, vịt… Nhưng giết để mừng một dịp lễ hội hè nào đó thì người Mỹ cứ nhắm vào loài gà tây mà tàn sát thì tội quá.

Giết hơn 60 triệu con gà tây thì phải gọi là thảm sát ở mức diệt chủng nếu chuyện chém giết đó diễn ra ngoài thiên nhiên. Nguyên nhân đưa tới những bất hạnh này của loài gà tây là khi những người di dân Thanh Giáo từ Anh sang lập nghiệp ở tân thế giới trong thời gian đầu đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Đói khát, bệnh tật đã cướp đi mạng sống của một số người trong mùa đông đầu tiên. Qua mùa xuân, những di dân này đã được những người da đỏ sống trong vùng giúp đỡ, chỉ cách trồng bắp và vài thứ rau trái khác. Người da đỏ cũng bầy cho các di dân săn hươu nai trong rừng và những con chim thuộc bộ gà thuộc chi Meleagris họ hàng xa với loài trĩ. 

Những di dân Thanh giáo nhờ những lòng tốt và những giúp đỡ của người da đỏ đã thoát được những khó khăn trong miền đất mới. Sau vụ mùa đầu tiên thành công, những người di dân cảm tạ Thượng Đế bằng một bữa tiệc mời cả những người da đỏ ân nhân đến dự. Trên bàn tiệc ngoài rau trái, còn có gà tây từng đã cứu đám di dân này qua cơn đói khát.

Thế là thay vì mời vài ba con gà tây đến dự tiệc để cám ơn chúng, ít ra thì cũng phải mời chúng vài ba thùng bắp. Nếu chúng ăn không hêt thì cũng cho chúng “to go” mang về nhà ăn tiếp. Nhưng các ông bà di dân Thanh Giáo biến món thịt của những con gà ân nghĩa ấy thành một món ăn không thể thiếu trên bàn tiệc của lễ Tạ Ơn mỗi năm.

Và đó là khởi đầu cho cuộc thảm sát hàng năm những con gà tây. Dân số nước Mỹ càng tăng thì số gà tây bị thảm sát mỗi năm cũng tăng theo. Không có một dấu hiệu nào cho thấy số gà tây bị thảm sát mỗi năm sẽ giảm đi.

Trong khi đó, loài chim này bị đối xử không được tử tế cho lắm. Người Mỹ coi chúng là giống vật đần độn. Gọi ai là “turkey” thì đó là cách nói người ấy rất thiếu thông minh. Loài chim này sau đó được thuần hóa, được nuôi ở nhà, hay qui mô hơn là trong các trại. Chúng được nuôi chỉ để cung câp thịt cho người. Chúng ra đời trong một cái chuồng lớn và lớn lên ở trong đó cho đến khi đủ một sức nặng nào đó thì bị lôi ra thảm sát.

Vừa nở ra, chúng bị cắt ngay một khúc mỏ để khỏi mổ nhau. Do đó, việc ăn uống của chúng trở nên khó khăn không ít. Kế đến, chúng bị chích, bắt uống đủ mọi loại thuốc để ngừa bệnh tật và kích thích cho chóng lớn. Chúng không một lần được hưởng cái thú đi bộ như những con gà nuôi theo kiểu Việt Nam để khi vào nồi phở giúp cho tô phở ngon hơn. Chúng được cho ăn để mập nặng đến độ đôi chân của chúng cũng không đỡ nổi cái thân mình quá nặng của chúng nữa. Chúng chỉ nằm một chỗ, cố gắng lắm cũng chỉ đủ sức lết ra chỗ ăn hay uống nước. Những con gà tây nuôi trong trại để lấy thịt đã mất hẳn khả năng bay như tổ tiên của chúng. Chúng chỉ là những cục thịt chờ ngày lên bàn tiệc Thanksgiving hay Giáng Sinh. Có phải vì thế mà tiếng kêu của chúng nghe hết sức tội nghiệp hay không. Cùng là gà nhưng tiếng gáy của những con gà trống Việt Nam nghe oai biêt là bao nhiêu. Ngay tiêng quang quác của những chị gà mái cũng rộn ràng một góc sân. Gà tây thì chỉ những con trống mới biết kêu nhưng tiếng kêu của chúng nghe như tiếng của một con vật bị bóp cổ : nghẹn ngào và bi thảm.

Tội nghiệp những con gà tây hết sức.

Tôi đã quyết định không đụng vào bất cứ một con gà tây nào từ cả hơn hai chục năm nay tức là kể từ khi hiểu được những khốn khổ về cuộc đời của những con gà tây đáng thương này. Chẳng gì ông bà ta ngày xưa cũng đã nói rằng:

Dù xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một … gà

Thôi hay là đợi cho đến khi “leo lên nóc tủ ngắm gà (ta) khỏa thân” cũng vui chán ! Bây giờ thì tha cho những con gà tây.

November 14, 2015

November 13, 2015

POUR TOI MON AMOUR

Trong tập Paroles xuất bản năm 1945, Jacques Prévert có một bài thơ nhan đề Pour Toi Mon Amour mà tôi rất thích, thích ngay từ lần đầu tiên đọc nó. Bài thơ vỏn vẹn chỉ có 17 dòng nguyên văn như thế này:
       
Je suis allé au marché des oiseaux
Et j’ai acheté des oiseaux
Pour toi
Mon amour
Je suis allé au marché aux fleurs
Et j’ai acheté des fleurs
Pour toi
Mon amour
Et je suis allée au marché à la ferraille
Et j’ai acheté des chaines
De lourdes chaines
Pour toi
Mon amour
Et je suis allé au marché aux esclaves
Et je t’ai cherchée
Mais je ne t’ai pas trouvée
Mon amour


Đại khái chàng thi sĩ nhà quê đi chợ chim, mua mấy con chim cho người yêu bé bỏng, rồi lại ghé chợ hoa mua mấy bông hoa cho nàng, vòng qua chợ chợ sắt mua mấy sợi xích (chắc để xích nàng lại không cho đi lăng quăng nữa) rồi chàng đến chợ nô lệ tìm nàng mà chẳng thấy nàng đâu.

Chàng mua đủ thứ quà cho nàng, nào chim, hoa bướm lãng mạn (cùng mình) luôn cả mấy sợi xích để giữ nàng…Nhưng khi chàng muốn nàng là nô lệ của riêng chàng thì nàng biến mất, kiếm không cách nào ra. Tỏ tình như vậy là khéo lắm: có chim chóc, hoa bướm… lại đòi giữ nàng lại bằng xích nặng chình chịch nhưng vẫn để cho nàng thở, tự do phơi phới. Mượn thơ của ông Tây Prévert để tán như thế thì cách gì nàng thoát được.

Bèn chép vào giấy bắt chước ông Tú Xương, “dán ngay lên cột, hỏi (nàng) rằng dốt hay hay” (thực ra là lén kẹp vào cuốn sách đưa nàng). Nhưng nàng đọc không hiểu câu cuối, suốt mấy hôm cứ lẵng nhẵng đi theo thắc mắc mãi nên chàng chán quá. Có câu hay nhất trong bài thơ mà không chịu hiểu (hay cũng có thể là cố tình không hiểu) để bắt chàng tán thêm cho bõ ghét nên … cho nàng đi luôn. Thời ấy của chàng thì làm quái gì còn chợ nô lệ nữa mà bắt chàng dẫn ra chợ để cắt nghĩa lôi thôi.

Có mấy cái chợ như ở Annapolis, Baltimore hồi nước Mỹ còn cho mua bán nô lệ thì đã bị dẹp từ hồi trước nội chiến Nam Bắc hơn một trăm năm trước. Hồi ấy, những người da đen chở từ Phi châu sang được bầy bán như nông súc cho người mua tha hồ lựa chọn. Nhưng lúc đọc được bài thơ của Prévert thì không còn những cái chợ như thế nữa. Thế là dẹp luôn mối tình ấm ớ thời thơ dại (dột).
Kể ra thời còn trò mua bán nô lệ cũng vui chứ. Người mua tha hồ sờ nắn bắp thịt, lựa chọn những người đàn ông coi có khỏe mạnh không, có thích hợp với công việc đồng áng trong các đồn điền không, còn lao động được bao nhiêu năm nữa vân vân. Người mua cũng được dịp xem xét kỹ các phụ nữ coi có đủ sức làm việc nhà và có còn đẻ thêm vài ba nô lệ con nữa không. Những cảnh khủng khiếp như vậy không còn nữa. Kiếm cái chợ còn không ra thì làm sao tìm được nàng nữa. Ít nhất cũng là thời ông Tây Prévert khi viết bài thơ ấy. Và vì thế, người yêu bài Pour Toi Mon Amour cũng được mối tình(?) đầu (lâu) buông tha.

Nhưng nay những cái chợ nô lệ ấy muốn kiếm thì cũng chẳng khó khăn gì. Hàng hóa được bầy bán công khai ở Malaysia, rao bán trên báo ở Hoa lục (bảo đảm nếu bỏ trốn sẽ được đền ngay, không thích có thể trả lại hay hoàn lại tiền) hoặc cũng có thể mua tận gốc ở thành phố Hồ Chí Minh (xưa kia gọi là Sài Gòn, nay bị tha hóa nên bị thay bằng tên mới). Cũng có cảnh các hàng nữ được bóc trần cho khách tha hồ chọn. Và để theo kịp với tiến bộ của thời đại “a còng: @”, hàng còn được rao bán trên mạng với giá không cao lắm là 1,500 đô la Mỹ. Cơ sở bán nô lệ còn cho biết ở Vân Nam hiện có 98 nô lệ sẵn sàng để vô thùng gửi đi khắp toàn quốc. Hàng là phụ nữ Việt, được gọi ngụy trang là cô dâu trẻ và đẹp. Cái quảng cáo lăng mạ phụ nữ Việt Nam đó được đọc thấy trên một tờ báo ở Trung quốc cách đây mấy hôm.

Như vậy, muốn tìm mua nô lệ là mua được ngay khỏi phải mât công đi kiếm ngoài chợ, kiếm không ra về nhà làm bài thơ bằng tiếng Tây cho bõ ghét.

Có điều khốn nạn là lời ra bán nô lệ đầy nét xúc phạm danh dự và nhân phẩm của phụ nữ Việt đã không có được một phản ứng nào của sứ quán Việt Nam. Ít ra thì cũng phải đòi dẹp cái quảng cáo chó đẻ đó, đòi cái cơ sở buôn người đó phải xin lỗi chứ im thin thít như những con sò mà nhà ngoại giao Lê Văn Bàng năm xưa khom lưng mò ở New Jersey thì không được chút nào.

November 8, 2015

November 7, 2015

… ĐAU TAY

Ông Tản Đà, trong tập Khối Tình Con (1913) và Tản Đà Văn Tập, có hai bài thơ thất ngôn bát cú chỉ khác nhau có 4 câu đầu còn 4 câu sau thì giống hệt. Hai bài có hai cái tựa khác nhau nhưng đều nói về chuyện một ông thầy đồ nham nhở bị một phụ nữ tặng cho bàn tay thích đi lang thang của ông một gậy đau gần chết.
Hành động ưa phiêu lưu của ông được mô tả rất rõ trong tựa của bài thơ in trong tập Khối Tình Con: “Bóp Vú Đau Tay”. Bài thơ ấy nguyên văn như sau:
Hàng xứ đồn lên lắm chuyện hay
Con người như thế hóa non tay 
Gớm cho cô bé nhiều gan tệ
Chết nỗi làng chơi phải miếng cay
Hùm đã biết tay sao cứ mó?
Chim chưa vỡ bọng dễ mà bay
Từ đây buộc chỉ chừa thôi nhé
Đừng có chơi dao liệu có ngày
Có lẽ cái tựa “Bóp Vú Đau Tay” vào thời ấy (1913) nghe sỗ sàng quá nên Tản Đà sau đó đổi lại là “Thầy Đồ Ve Gái Phải Đánh Đau Tay” và viết lại 4 câu đầu của bài thơ thành:
Em mới nghe đồn lắm sự hay
Đồn rằng bác mới phải đau tay
Gớm ghê cô bé già gan tệ
Lẩy bẩy thầy nho mắc miếng cay
Còn 4 câu sau thì giống hệt 4 câu của bài trước. Đọc cả hai bài thì thấy người bị đánh đau tay là một ông thầy đồ chắc đã có tuổi (lẩy bẩy) bề ngoài đạo mạo chữ nghĩa thánh hiền một bụng, nhưng lúc vắng người thì thầy ma mãnh hơn bất cứ ai, những trò nhí nhắt (mà Nguyễn Khuyến kể trong bài Lựu : … ông già ông khác người ta / những cái nhí nhắt ông ma bằng mười) thầy chẳng hề thua người nào. Cho đến khi thầy bị người phụ nữ (mà thầy nham nhở) cho bàn tay của thầy một đòn đau nhớ đời. Chuyện được truyền miệng khắp Hà thành, đến tai Tản Đà nên bị ông già núi Tản sông Đà cho một bài thơ lên báo. Chắc ông thầy đồ cũng là chỗ quen biết, lại là vai vế đàn anh của Tản Đà nên Tản Đà mới xưng “em” và gọi ông thầy đồ bằng “bác”.
Thực ra chuyện nham nhở, cho bàn tay lang thang một chút thì cũng thế gian thường tình, nhưng chuyện mới xẩy ra gần đây tại Hàn quốc thì lại là chuyện không nhỏ chút nào.
Một tờ báo ở Bucheon, một thị trấn gần thủ đô Hán Thành, tuần trước cho biết một cán bộ lãnh đạo công an Việt Nam đã bị cảnh sát Hàn quốc bắt về tội có hành vi sàm sỡ với một phụ nữ lảm việc cho một khách sạn nơi người này đang tạm lưu trú. Người đàn ông này đã có những hành vi nham nhở với người phụ nữ 21 tuổi trong thang máy, bị cự tuyệt, chàng ra khỏi thang máy chạy về phòng làm như không có gì xẩy ra. Nhưng máy thu hình đặt trong thang máy đã thu được tất cả nội vụ. Người phụ nữ ngay sau đó đã trình báo với cảnh sát nên người công an mất nết này đã bị bắt giữ ngay sau đó. Chàng chối bay chối biến làm như còn ở Việt Nam không bằng. Nhưng camera trong thang máy thì không ăn gian nói dối như công an cảnh sát Việt Nam. Hình ảnh camera thu lại rất rõ hành vi mất dậy của viên công an cao cấp này. Được biết chàng được cử đi Hàn quốc để tham dự một khóa tu nghiệp trau dồi "nghiệp vụ". Vậy là mới sang đất nước người ta được 5 ngày, chàng đã giở trò khốn nạn ngay với một phụ nữ Hàn quốc. Báo chí ở Bucheon không nêu đích danh chàng mà chỉ cho biết tên tắt của chàng là A. năm nay 51 tuổi, Chưa biết cảnh sát Hàn quốc sẽ giải quyết vụ này ra sao. Có thể chàng sẽ tống xuất về nước và sẽ đựợc thăng thưởng vì không ăn cắp trong siêu thị như nhiều người Việt khác ở Hàn quốc và Nhật không chừng!
Khốn nạn hết chỗ nói!
Trong khi đó, báo chí trong nước hồi tuần trước loan tin hồi tháng 5 năm nay, ông Ban Ki Moon, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã đến thăm nhà thờ họ Phan Huy ở Sài Sơn nhận là có liên hệ họ tộc với dòng Phan Huy ở Việt Nam. Ông Ban Ki Moon đã viết trong sổ lưu niệm của nhà thờ tên Việt Nam của ông là Phan Cơ Văn và hứa sẽ hành sử sao không hổ danh dòng họ Phan Huy của ông.
Đặt hai chuyện bên nhau mà thấy buồn. Một người trở về đem vinh dự cho dòng họ Phan. Một thằng khốn nạn làm nhục nhã người Việt vì một cái bóp vú người phụ nữ Hàn quốc.
Chỉ vì chủ nghĩa Cộng Sản khốn nạn ở Hà Nội.

October 31, 2015

October 30, 2015

TỰ HÀO

Bút Tre , thiên tài thi ca của nước ta hồi tháng 4 năm 1961, một hôm không biết làm gì cho vui, ra sân đứng nhìn lên trời tự nhiên thấy vui quá liền chạy vào nhà lấy giấy bút viết ngay hai câu thơ lục bát mà có thể không người nào có chút máu thi ca trong huyết quản mà không biết:
Chúng ta sung sướng tự hào
Có Ga-ga-rỉn bay vào vu tru ( *)
Thế là thành tích của phi hành gia Liên Xô Yuri Gargarin đi ngay vào thi ca của nước Việt.
Nước ta thì sau đó, như vừa tìm được mấy chữ mới, đem ra dùng lia lịa bất kể những điều mà nước ta có thật sự xứng đáng để tự hào hay không thì cũng vẫn cứ la hoảng lên là rất tự hào.
Tự hào là tình cảm kiêu hãnh, sung sướng, hưng phấn về chính mình, về khả năng, về những điều thành đạt mà mình làm được vượt trội lên trên, hơn hẳn những người khác. Yuri Gargarin là một phi công Liên Xô, thành tích của chàng là ngồi trong một phi thuyền gắn trên đầu của một hỏa tiễn Vostok 1 phóng lên thượng tầng khí quyển rồi đáp xuống trái đất an toàn. Kể ra thành tích ấy có đáng nể thật. Gargarin được tặng không biết bao nhiêu là huân chương cao quí. Tin tức loan ra khắp nơi về chuyến bay vào vũ trụ của chàng. Mỹ thua to quả này. Nước ta thì lúc đó không ưa Mỹ, thấy Mỹ thua Liên Xô thì sướng chết đi được. Liên Xô là đàn anh, mà đàn anh thì cũng như người nhà. Người nhà đạt được thành tích lớn như thế thì mình vui là phải. Thế là bất kể cậu Yuri Gargarin có coi Việt Nam là người nhà của cậu hay không, và có bao giờ cậu thoáng qua trong đầu ở cái nước Việt Nam xa xôi ấy có những người chỉ lăm lăm đợi đi một đường lưỡi, liếm cho đôi gầy của chàng được thêm bóng hay không, thì kết cuộc chàng vẫn được nhà nhà thơ Bút Tre viết hai câu lục bát ca ngợi chàng, coi chuyến đi của chàng là một thành tích làm cho cả cái đám dân bần cùng nước Việt chết lên chết xuống đang không biết tìm đâu được một chút tự hào nào cho bớt đói.
Và bất kể luật bằng trắc của thơ lục bát, ông Bút Tre cứ tự tiện chỗ nào cần vần bằng thì quăng vần bằng vào, chỗ nào cần vần trắc thì ông phang vần trắc vào, các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng ông cứ dùng một cách rất tùy nghi. Và Gargarin được viết thành Ga-ga-rỉn… vũ trụ thành vu tru là thế.
Niềm tự hào của dân tộc cứ thế phăng phăng mà đi, thừa thắng xông lên lia lịa. Trước ngày 2 tháng 9 vừa qua, báo chí trong nước ta cứ nhắng lên mà tự hào về đủ mọi chuyện, tô hồng chuốt lục cho chính mình làm nhân dân ai cũng tưởng thật.
Không còn Gagarỉn để tự hào nữa thì phải moi móc ra những chuyện khác để mà tự hào với nhau vậy. Thế là tự hào loạn lên. Tự hào về người Việt, về tiếng Việt, về bác Hồ, về thành tích chống Mỹ cứu nước, về quân đội nhân dân anh hùng, về đại tướng Phùng Quang Thanh, mặt mũi giống lợn ỉ nhất, ăn nói ngu nhất, về Ba Ếch không học luật ngày nào vẫn có bằng cử nhân luật hệt như áo dài Thiết Lập không có eo cắt vẫn có eo, tà búp, bâu tươi, về thành tích tham nhũng không thua gì Zimbabwe, về chuyện con cái bọn to đầu được đưa vào những chức vụ cao, không như bọn con cái của Thiệu, Kỳ, Nhu Diệm chẳng đứa nào được bố nhét vào những nơi đầy mưa móc, tiền bạc ê hề vân vân…
Đang sung sướng đến độ chết được thì có người dí ngay vào tay một bài báo trong nước một bản tin cho biết chỉ trong có 6 tháng đầu của năm 2015 đã có 1,515 phụ nữ Việt Nam bị nhà cầm quyền Singapore từ chối không cho nhập cảnh mặc dù tất cả đều có giấy tờ hợp lệ. Nhiều người bị thẩm vấn gay gắt trước khi không cho nhập cảnh. Nhà cầm quyền Singapore không cho biết những lý do không cho vào đảo quốc của họ. Nhưng nếu thông minh một chút thì người ta biết ngay lý do đó và lý do mà Singapore từ khước không cho những phụ nữ này vào Chiêu Nam Đảo tức là Singapore là sợ các phụ nữ này đem thân thể của họ bán cho những người đàn ông Singapore. Chao ôi là tự hào!
Người bạn độc ác của tôi còn đưa cho tôi xem hình chụp những bức ảnh chụp mấy tấm biểu ngữ viết bằng tiếng Việt cảnh báo các công dân Việt Nam không nên trộm cắp bằng tiếng Việt tại các cơ sở thương mại ở Nhật, Đài Loan, Thái Lan, Hàn quốc …
Bạn tôi chua chát nói rằng tiếng Việt được dùng trong những trường hợp như thế thì có đáng tự hào, kiêu hãnh không…
Tôi nhớ cụ Phạm Quỳnh và tình yêu cụ dành cho tiếng Việt rồi nối kết sự tồn tại của tiếng Việt vào với sự tồn vong của nước Việt và bài thơ của Nguyễn Đức Quỳnh trong nhóm Đàm Trường Viễn Kiến mà đau sót cho tiếng Việt, “tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi” mà muốn … khóc chứ chẳng tự hào cái quái gì cả.
May quá, cái ngày 2 tháng 9 đã qua rồi. Mong đừng có một ngày như thế nữa!

 (*) yêu cầu các thầy cò thông thái của các báo sử dụng bài này đừng sửa sang gì câu này vì nếu sửa thì chắc chắn sẽ có mấy con lợn què chay lông nhông ngoài đường ngay!

October 22, 2015

October 23, 2015

 QUÊN
Theo Sigmund Freud, cha đẻ của môn phân tâm học, quên là một việc làm cần thiết. Không quên, cứ nhớ đủ thứ thì sẽ đến một lúc, trí nhớ đầy kín, không còn nhồi nhét thêm được nữa, những chuyện cần được giữ lại cứ bỏ chúng ta mà ra đi thì cũng rất khốn khổ. Nhưng có những chuyện cần phải quên đi trong khi có những chuyện cần phải nhớ. Do đó, chuyện nhớ hay quên cũng cần phải chọn lựa. Trí nhớ, do đó, có khả năng lọc lựa, chuyện cần thì giữ lại, chuyện không cần nhớ thì quên đi. Selective memory là những hồi ức có tuyển chọn. Chuyện này rất cần thiết, Trí nhớ chọn ra những gì đáng nhớ thì giữ lại, những gì không đáng và không cần giữ lại thì gửi gió cho mây ngàn bay. Chứ cứ ôm hết để nhớ hoài thì mệt quá.
Gần đây, cái tính hay quên có vẻ càng ngày càng thấy ở khá nhiều người Việt. Thay vì quên có thể giúp cho người ta đổ bớt những rác rến cho những bộ nhớ của những cuộn não như Freud nói, thì có những trường hợp quên cũng gây vất vả không ít cho những người mắc chứng hay quên.
Có những chuyện quên gây rắc rối cho người hay quên như vụ mới đây, một phi công lái máy bay chở khách của hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) vào một cửa tiệm có thể là một department store ở Nhật và mua một số hàng hóa rồi quýnh quáng làm sao bỗng bệnh quên vùng lên và chàng quên trả tiền cho những món chàng mua. Chàng cứ tự nhiên như người Hà Nội đi thẳng ra cửa. An ninh của tiệm chạy theo túm lấy công dân Việt Nam đãng trí quên trả tiền này thì chàng khai là đang bận suy nghĩ về bác Hồ kính mến nên không nhớ trả tiền khi ra về cho mấy món chàng bỏ quên trong các túi áo và túi quần. Thế là chàng bị giữ lại, không cho ra phi trường lái máy bay về Việt Nam nữa. Vụ này xẩy ra hôm 8 tháng 10 năm 2015. Không biết chuyện này được giải quyết xong chưa mặc dù có sự can thiệp của sứ quán.
Như vậy là người Nhật hay làm khó những người đãng trí. Người Nhật không hay quên như người phi công nọ. Người Nhật có vẻ ghen ghét những người có tính hay quên. Thấy những người hay quên, đầu óc thư thái vì quên đi được nhiều chuyện thì đâm ra ghen ghét rồi… phạt người ta.
Chuyện người phi công hay quên nọ là chuyện rất thường và càng ngày những vụ quên này càng xẩy ra nhiều hơn. Theo cảnh sát Nhật, con số người Việt mua hàng quên trả tiền tại các cửa hàng, siêu thị chiếm hơn 40% những vụ quên trả tiển của những người nước ngoài. Nhiều nơi phải trưng bảng cảnh cáo viết bằng tiếng Việt để cảnh cáo nhưữg vụ mua hang mà quên trả tiền của người Việt mà người Nhật gọi là ăn cắp.
Một đằng gọi là quên trả tiền, là nóng tính cầm nhầm, là nhấc tiệm (chắc dịch từ chữ shoplifting), là vồ, là thuổng, là xoáy, là bàn tay nhám, là … trong khi phía Nhật thì gọi đó là ăn cắp và phạt đến nơi đến chốn.
Nhưng chẳng phải chỉ có Nhật mới ngôn ngữ bất đồng (?) như thế mà ở cả các nước như Thái, Hàn quốc, Đài Loan … cũng gọi những vụ quên trả tiền đó là ăn cắp rồi bắt giữ và phạt nhiều người Việt chỉ vì họ vừa đi mua sắm vừa mải suy nghĩ làm sao phục vụ đảng đắc lực hơn, kính yêu bác Hồ nhiều hơn… nên quên cha nó việc trả tiền rồi bị người ta làm khó.
Chứ mấy cái vụ quên trả tiền như vậy có đáng gì. Kìa như cô Vũ Kiều Trinh một khuôn mặt rất nổi tiếng của truyền hình trong nước đã quên trả tiền khi đi mua sắm ở Thụy Điển và Anh lại còn được sứ quán can thiệp nói là cô bị bệnh tâm thần, về nước, vì gốc lớn, vẫn lên đài truyên hình nói chuyện văn hóa dân tộc cho đài VTV. Hay là một cặp quên trả tiền mấy căp kính đắt tiền ở Thụy Sĩ rồi cũng có sao đâu. Ngoài ra còn nhiều tiếp viên hàng không cũng hay mua sắm rồi quên trả tiên ở Nhật đó thôi.
Vì đã xẩy ra quá nhiều vụ mua hàng quên trả tiền nên các sứ quán của nước ta phải yêu cầu cảnh sát ở các nước từng xẩy ra nhiều vụ người Việt đi mua sắm rồi quên trả tiền viết lại những tấm bảng cảnh cáo bằng những câu khác hơn là những cảnh cáo không nên ăn cắp để thành những lời cảnh cáo nên nhớ trả tiền, hay đừng quên trả tiền.

Hai chữ “ăn cắp” thì nặng quá. Ăn cắp thì chỉ có những thằng to đẩu ở Hà Nội chứ quên trả tiền khi đi mua sắm ở siêu thị thì có gì đâu mà làm lớn chuyện như vậy. Cứ bắt giữ, phạt thật nặng rồi đuổi về nước là đủ rồi.

October 10, 2015

October 9, 2015


NỢ MỘT LỜI XIN LỖI

Tính tới nay, bốn mươi năm đã qua. Gần một nửa thế kỷ, thời gian đủ dài để nhìn lại những sai sót, những lầm lẫn, những chuyện không hay đã xẩy ra để tránh lập lại, và ít nhất là nhận lỗi, để đưa ra một lời xin lỗi. Mặc dù lời xin lỗi đó có muộn màng, có quá muộn màng đi chăng nữa. Tôi rất thích cách nói này của tiếng Anh: tôi nợ anh một lời xin lỗi, I owe you an apology. Khi mắc hay thiếu nợ thì phải trả, không có chuyện bỏ qua được.

Ngay sau khi những chiếc T-54 chạy vào thành phố Sài Gòn, ủi sập một cánh cổng và cầy nát thảm cỏ của dinh Độc Lập (một cách không cần thiết), thì cái việc không hay đó cũng bắt đầu.

Trong cuốn Giải Phóng (1976) củaTiziano Terzani, một nhà báo người Ý, viết về ngày 30 tháng Tư năm 1975, có một bức ảnh đen trắng chụp một nữ du kích đứng tại góc đường Tự Do và Lê Lợi, có thể là trong ngày đầu tiên khi quân đội miền Bắc tiến vào kiểm soát thủ đô miền Nam. Người nữ du kích mặc quần áo đen, khăn rằn, mặt mũi vẩu viu, vẫn chưa hoàn hồn, vẻ kinh ngạc còn nguyên trong ánh mắt. Cảnh Sài Gòn đã tạo ra nét hoảng hốt đó.

Người Sài Gòn sau những kinh hoàng đầu tiên, đã kéo nhau ra đường tung hô những thay đổi, ngây thơ tưởng như làm như thế, họ sẽ được những bánh sắt xe tăng đối xử tử tế, nhẹ nhàng hơn. Những hình ảnh chụp cảnh đốt sách báo ở ngoài đường, hay cảnh tham dự cuộc diễn hành của quân “giải phóng” người ta thấy nhiều phụ nữ mặc những chiếc áo dài đẹp để mừng “đoàn quân chiến thắng”.

Nhưng chỉ vài ba ngày sau đó, cái ngây thơ đó đã bị dội cho những chậu nước lạnh buốt và tàn nhẫn. Nói là tàn nhẫn thì cũng vẫn còn là nhẹ. Phe chiến thắng quay lại đưa ra những đối xử tàn bạo ngay sau đó. Những kiểu ăn mặc của người Sài Gòn bị chiếu cố lập tức. Ở đầu đường, góc phố, các thanh niên bị chặn lại, những mái tóc bị những nhát kéo nham nhở làm cho ngắn đi, những chiếc quần ống hơi chật bị cắt cho rộng ra để có thể lọt một cái chai. Thời trang cách mạng, bưng biền không chấp nhận kiểu ăn mặc như thế. 

Những chiếc quần jean biến mất vào trong những góc tủ quần áo hay chạy ra chợ trời cùng với những kiểu quần áo “đồi trụy” tàn dư của Mỹ Ngụy phản động.

Về phía phụ nữ thì những chiếc áo dài cũng ngừng xuất hiện. 

Những chiếc không hoa lá, mầu mè sặc sỡ thì với mấy nhát kéo để làm cho mất đi những nét thời trang bay bướm của những ngày trước khi bưng biền tiến vào. Hai chục năm Hà Nội nhem nhuốc áo cánh, quần vải thô không thể chốc lát điều chỉnh để có lại được cảm quan nghệ thuật trong lãnh vực ăn mặc. Cách ăn mặc của phụ nữ Sài Gòn chắc chắn làm cho những người như cô nữ du kích vừa từ bưng vào thành phố không vui.

Thế nên phải dẹp cái thứ thời trang không thích hợp với lối ăn mặc của cách mạng. Kiểu ăn mặc đó là kiểu đồi trụy. Cái đẹp cách mạng không có lối ăn mặc như thế.

Chỉ một thời gian ngắn sau đó, những chiếc áo dài mini của tuổi trẻ Sài Gòn, những kiểu áo đẹp thầm kín chững chạc hơn, vai raglan, không eo cũng biến mất…

Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều
Cánh tay tà áo sát vòng eo…
Guốc cao gót nhỏ mây vào gót
Áo lụa trăng mềm bay xuống thơ
…(Nguyên Sa)

Nhưng rồi cũng không lâu sau đó, những chiếc áo dài đồi trụy thấy dần dần xuất hiện trở lại. Chúng được mua ở chợ trời của những người chủ của chúng để giải quyết những cơn túng quẫn của trận phá sản kinh tế diễn ra ở miền Nam. Những chiếc áo ấy được đem ra Bắc, được đem ướm vào những hình hài thô kệch, và bỗng biến những nét thô kệch ấy giảm đi ít nhiều. Những chiếc áo đó được đem ra mặc, và từ từ xuất hiện nhiều hơn khi người ta thấy chúng giúp làm bớt đi những nét quê kệch của người mặc. Chúng được dùng làm kiểu mẫu để đo may và cắt những chiếc áo mới.

Những chiếc áo dài từ đó dần dần không còn bị coi là đồi trụy nữa. Cán bộ nhà nước quay sang mặc chúng trong các dịp lễ lạc, tiếp tân và vợ của các lãnh tụ cũng diện chúng trong những chuyến xuất ngoại với chồng. Hết vợ Trương Tấn Sang lại đến vợ Ba Ếch… mụ nào cũng lôi những chiếc áo may theo kiểu áo dài của thời đồi trụy Mỹ Ngụy, nhưng không thấy một con khỉ đột nào đòi cắt hai vạt trước sau như hồi năm 1975 nữa. Những cuộc trình diễn thời trang ở trong nước cũng đem trình diễn toàn những chiếc áo dài từng có lúc bị coi là đồi trụy và thiếu cách mạng tính, không tượng trưng cho nét đẹp bưng biền, giải phóng…

Bọn ngợm từng xúc phạm, mạ lị, bôi bẩn những chiếc áo dài phải xin lỗi những chiếc áo dài mới phải.

Nhưng có lẽ cũng chẳng cần tới lời xin lỗi của một bọn quen trò nhổ rôì lại liếm nữa. Cứ lôi những chiếc áo dài đồi trụy ra mặc cũng đã là tự chúng nó chửi cha chúng nó lên rồi.


Những chiếc áo dài đều biết điều đó!

October 8, 2015

October 2, 2015

NHỚ MỘT NGƯỜI TINH QUÁI

Hồi còn đi học, tôi có mấy cái hộp giầy bằng các tông để trên nóc tủ sách, mỗi lần nhận được thư từ gia đình, bạn bè… đọc xong tôi đều bỏ vào đó. Những bức thư cứ đều đặn tới và tất cả được giữ lại trong những cái hộp giầy ấy. Một hôm tôi viết vài chữ trên chiếc hộp đựng thư để phân biệt chúng với những hộp đựng các thứ giấy tờ khác. Tự nhiên không hiểu tại sao tôi lại viết xuống hai chữ “thư nhà” trên những cái hộp giầy đựng những lá thư của gia đình và bạn bè từ Việt Nam gửi sang. Đáng lẽ tôi đã có thể viết “thư gia đình” hay “thư Việt Nam”. Nhưng không biết tại sao tôi lại viết thành “thư nhà”. Nghe “thư nhà” tôi thấy nó thân tình hơn, gần gũi hơn là những chữ kia. Những bức thư nhận được từ nhà, từ những người bạn ở cái thành phố thân quen đó.

Một thời gian sau, tôi không nhớ là bao nhiêu lâu, kể từ lúc tôi đặt tên cho mấy cái hộp giầy đựng những thư từ của gia đình và bạn bè, thì một người bạn gửi cho qua đường bưu điện một cuốn sách của Võ Phiến có tên là Thư Nhà vừa được xuất bản. Đó là năm 1962.

Những bức thư mang dấu bưu điện Việt Nam hồi đó, đến bây giờ, sau nửa thế kỷ, tôi vẫn còn giữ và vẫn gọi chung chúng là “thư nhà”, cái tên Võ Phiến đặt cho cuốn sách của ông và tôi vô tình chọn để gọi chung những lá thư nhận được từ quê nhà.

Những gần gũi với tác giả của Mưa Cuối Năm, Nửa Đêm Trăng Sáng … cũng bắt đầu từ đó. Bạn tôi gửi cho tôi gần như tất cả những tác phẩm của Võ Phiến xuất bản ở Việt Nam. Phải nói ngay là những cuốn sách đó đã ảnh hưởng không ít tới đầu óc, cảm quan của một thanh niên mười chín hai mươi vừa rời trung học. Tôi đọc ông với một thái độ hệt như người đọc kinh thánh, nhưng không như người bị bịt mắt dẫn đi. Đó là suốt những năm đầu của thập niên 60. Rồi sau đó tôi về nước, và trong công việc hàng ngày, khi có dịp tôi vẫn đọc ông, mãi cho đến năm 1975.

Ra khỏi Việt Nam, trong số sách vở tôi đem theo được, là mấy cuốn sách của Đinh Hùng, Mai Thảo, Nhật Tiến và của ông. Vậy là tôi lại mang được ông, những thứ tưởng là không còn bao giờ còn ở được với mình nữa.

Những đẩy đưa của cuộc sống mới đưa tôi tới một công việc với một đài phát thanh ở Washington, và sau vài tháng, một hôm tôi thấy trong số sách tôi mang đến đài, có một cuốn Tùy Bút của ông. Tôi đề nghị với người phụ trách chương trình Việt ngữ của đài phát thanh Tiếng nói Hoa kỳ để thực hiện mục Điểm Sách cho đài, một mục nhắm gìn giữ và phổ biến di sản văn học cho những cộng đồng người Việt ở những nơi ngoài Việt Nam. Và cuốn sách đầu tiên được đem giới thiệu cho những người đọc còn ở Việt Nam sau việc đốt cho bằng hết những sách vở thời Việt Nam Cộng Hòa là cuốn Tùy Bút 1 của Võ Phiến. Liền ngay sau khi cuốn sách này được gửi tới thính giả ở Việt Nam thì tác giả liên lạc với tôi và cho biết một người trong gia đình ở Việt Nam đã cho ông biết điều đó qua một bức thư gửi từ Việt Nam qua. Một người khác liên lạc với chúng tôi là một người có rất nhiều công trong việc gìn giữ nền văn học Việt Nam sau chiến dịch “phần thư khanh nho” ở trong nước, đó là ông Võ Thắng Tiết, người đàn ông hiền lành mà chúng tôi gọi tên một cách thân mật là anh Năm, người đã xuất bản toàn bộ tác phẩm của Võ Phiến ở hải ngoại, và nhờ đó, những tác phẩm của Võ Phiến đã tới được với người Việt ở nước ngoài .

Sau những bài viết về Võ Phiến được phát thanh về Việt Nam, chúng tôi mới quen ông, nhưng phải tới khi ông về hưu và dọn về ở tại Santa Ana tôi mới có dịp gặp ông, và theo mô tả của Nguyễn Xuân Hoàng, Võ Phiến là một ông già rất tinh quái. Và càng đọc, càng nhớ lại những tác phẩm của ông thì càng thấy đó là những mô tả rất đúng về ông. Nhất là trong những tùy bút của ông. Ông chẻ những sợi tóc không phải làm tư, mà thành 16, 18. Một cọng giá ông tìm thấy trong một tô hủ tiếu ở Gia Nghĩa, cái bóng đèn hột vịt, tiếng rao hàng buổi trưa, ly cà phê ở một tiệm nước tỉnh lẻ, sợi khói quằn quại từ một cánh đồng … đọc lên mà ứa nước mắt nhớ về quê hương cũ.

Võ Phiến cho người đọc nhiều thứ lắm, như một ngày để tùy nghi, giọt mưa bên một hàng hiên, những cánh chim én chao đi trên trời, ly trà tầu trong một tiệm mì, tiếng một con chó hực lên trong đêm tối, dấu bùn trên bắp chân của một người đàn ông, vài ba câu đối thoại dấm dẳn… Gấp lại những chi tiết ấy, càng thấy yêu ông hơn…   .   

Cách đây khoảng mấy năm, bà Võ Phiến gọi tôi, nói qua điện thoại rằng “ông già” , hai chữ bà vẫn dùng để gọi ông, rằng ông muốn gặp tôi. Tôi vừa dọn sang sống tại miền Tây, đồ đạc còn ngổn ngang trong phòng. Tôi thấy bộ đồ trà mua ở New York chưa bao giờ dùng. Tôi mang biếu ông cùng với một gói trà Long Tỉnh. May mà tôi làm việc đó, vì trong chuyến viếng thăm ông hôm đó, ông cho tôi một cái gói nhỏ rất đẹp. Mở ra, là một chiếc hộp đựng cây bút có khắc tên của ông. Ông nói là ông muốn cho tôi. Tôi nghĩ ngay đến chuyện một kiếm sĩ lên núi tầm sư học đạo và sau khi thọ giáo, người kiếm sĩ được vị thầy trao tặng một thanh gươm làm kỷ niệm. Cây bút vẫn còn đây và nó sẽ còn được giữ mãi.

Sang sống ở miền Tây tôi có nhiều dịp gần ông trong những bữa ăn với sự có mặt của Trúc Chi Tôn Thất Kỳ, Ngự Thuyết, Phạm Phú Minh…Những thân tình với ông càng ngày càng sâu đậm thêm. Bà Viễn Phố liên lạc với tôi nhiều lần khi có vài ba chuyện không vui. Chính vì thế tôi thấy mình được coi là thân tình. Cám ơn chị Võ Phiến. Hôm nay tôi chỉ xin được nói lên vài ba chuyện ít nhiều có dính dáng tới những thân tình ấy.

Hôm trước tự nhiên có hai câu này hiện ra trong óc, cũng chưa phải là những câu đối, xin đọc lên ở đây, gọi là để tiễn chân ông già tinh quái nhân dịp ông ra đi:

Võ Phiến vẫn mãi gần bên Viễn Phố
Thế Nhơn luôn còn ở với người đời

Chào anh Võ Phiến…

Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan

Xin được nhỏ những giọt nước mắt chân tình nhất như của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê, như đã với Mai Thảo, Trần Hồng Châu, Trần Bích Lan, Thanh Tâm Tuyền … như đã khóc trong ngày qua đời của hai người thân yêu nhất trong đời tôi.

Vĩnh biệt ông già tinh quái của tôi.


 Bùi Bảo Trúc

September 20, 2015

September 18, 2015

 NỖI BUỒN PHÂY BÚC
Là người ngồi trước cái computer mỗi ngày một khoảng thời gian lâu hơn ngó mặt … người thật, tôi phải nói ngay và thú nhận ở đây rằng tôi rất chậm tiến và rất nhà quê về facebook. Trò chơi này đã có mặt từ cả hơn một chục năm, nó đã đi tới khắp hang cùng ngõ hẻm, tận rừng già Phi châu, đã về tận Việt Nam, tới cả những nơi chó ăn đá, gà ăn muối, luôn cả những nơi tôi không có thể ngờ tới… đến nỗi nó đã trở thành “thân thương” và được gọi thân mật (?) là phây búc thì cho mãi tới gần đây, tôi vẫn không biết gì về nó.
Đủ mọi loại người đã dùng nó cho đủ mọi thứ việc, đủ mọi thứ chuyện, như làm quen với nhau, thông tin với nhau, kể cho nhau về đủ mọi thứ chuyện trong đời sống, trăm thứ bà dằn không thể nào kể ra cho hết được. Làm quen nhau, biết nhau, tìm gặp nhau, hò hẹn nhau, rồi đè ra cưỡng hiếp ngay sự quen biết (mới) đó, rồi đem sự quen biết (mới ấy ) bán vào những ổ điếm như đã nhiều lần báo chí trong nước loan tin. Hay rủ nhau ra trước cổng trường thanh toán vài ba chuyện bất bình rồi nhờ bạn dùng điện thoại smart phone thu hình lột quần áo của nhau, đăng lên phây búc cho cả năm châu bốn biển coi chung cho biết. Thì trong lúc đó, con người cù lần này vẫn không biết gì về phây búc.
Con người cù lần vẫn tiếp tục đi cạnh cuộc đời, vẫn ái ân lạt lẽo của … phây búc. Cho đến tận cuối tháng 8 của năm 2015, hôm tôi đến thăm một người bạn và phải nuốt một cục tự ái to tổ chảng, bẽn lẽn thú nhận là chưa có phây búc, cũng không biết phây búc là gì. Người bạn hỏi là có muốn có phây búc không rồi khi được trả lời là có, thì người bạn hỏi thêm dăm ba câu về thân thế, về cuộc đời ái tình và sự nghiệp (không huy hoàng mấy), và những ngón tay thoăn thoắt của nàng lập cho tôi một phây búc cho đỡ mắc cở với bạn bè.
Nhờ đó, tôi hiểu ngay tại sao chung quanh tôi, ở đâu ai cũng chăm chú ngó vào cái màn ảnh nhỏ xíu, ngón tay lúc thì gạt, lúc thì chọc chọc vào cái màn hình. Ngay cả những cô bé chú bé nhỏ xíu cũng thoăn thắt những ngón tay trên những chiếc smart phone.
Và từ hôm ấy, gần hai tháng nay, đời sống của tôi cũng có những thay đổi. Tôi phải nạp thêm điện vào điện thoại mỗi ngày hai lần thay vì một lần như trước. Lý do là thời gian mà tôi ngó vào cái điện thoại rõ ràng là đã gia tăng. Thời gian nhìn vào cái computer giảm bớt đi nhiều. Nhưng vừa có phây búc thì tôi liền thấy mình nộ khí xung thiên ngay lập tức. Dựa trên mấy chi tiết bạn tôi cung cấp, phây búc liền ghi xuống một chi tiết tôi không bao giờ đồng ý và cung cấp. Phây búc tự tiện cho tôi là người của thành phố Hồ Chí Minh! Chi tiết này khiến tôi phải lập tức sử dụng ngay những chữ chửi thề tục tĩu nhất trong cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt để nói rõ tôi không bao giờ, không một ngày nào sống ở cái thành phố mang tên một thằng bồi tầu rồi chính cái thằng ấy lại trở thành một thằng bồi Tầu (!).
Nhưng tôi bắt đầu ghiền phây búc từ lúc nào không biết. Thỉnh thoảng, nói đúng ra là cứ vài ba phút, tự nhiên tôi lại mở phây búc ra, check vài ba cái trang của mấy hãng tin, dăm ba người bạn xem có gì mới không. Hầu hết những lần như thế thì cũng chẳng có gì mới. Nhưng chuyện mở phây búc trở thành một thói quen, một hành động vô thức: tôi mở ra không vì một lý do gì hết.
Tự nhiên những chuyện ấm ớ đập vào mắt, bất kể tôi có đi kiếm hay không. Có những chuyện hoàn toàn vô bổ có lẽ cũng chẳng có bao nhiêu người quan tâm hay muốn biết. Một cái sinh nhật, một món ăn vừa được thưởng thức, một cái áo mới, một quen biết tình cờ mới gặp lại, một đứa con, một đứa cháu mới ra đời, một chuyến đi mới thực hiện…Những chuyện đó được “bốt” lên phây búc thì cũng chẳng sao, cũng chẳng gây phiền não cho bất cứ ai. Nhiều khi những chuyện đó lại làm được việc thông báo một số chuyện về những quen biết lâu không gặp hay không có tin tức.
Thế nhưng nhiều khi phây búc cũng lại rất vô tình. Cũng không thể trách những vô tình đó được. Phây búc nhận được gì thì “bốt” lên cái ấy. Nhất là những cái ấy lại được gửi tới bằng tiếng Việt. Có bao nhiêu người biết tiếng Việt trong số hơn một ngàn bẩy trăm người làm việc cho phây búc. Hơn nữa làm sao đọc hết được hàng tỉ phây búc mỗi ngày. Thí dụ một bản tin về một người bị một tai nạn mất hết khuôn mặt, mắt mũi, hay về một phụ nữ trẻ bị vẩy nến vừa qua đời… rồi ngay phía dưới là những bức ảnh của một phụ nữ uốn éo với những trang phục rất đẹp mời đi dự một party sang trọng…
Đồng ý là phê búc không có lỗi trong những chuyện như thế. Mà thật ra cũng chẳng phải là những cái lỗi nào hết. Chúng ta vẫn phải sống đời sống của chúng ta bất kể những chuyện gì đang xẩy ra chung quanh. Không một ai có lỗi cả.
Nhưng những chuyện như thế vẫn xẩy ra. Đó là những chuyện rất là obscene, chữ mà tôi không biết dịch sang tiếng Việt ra làm sao.

Đọc mấy trang phây búc này bỗng chán đời không thể tả được. Thà không có trang phây búc còn hơn. 

September 12, 2015

September 11, 2015

 MỪNG MỘT CÁI ĐƯỢC KHÔNG?

Tuần trước là ngày quốc khánh của nước ta, nhưng rõ ràng là rất nhiều người không tìm thấy được cái quái gì trong ngày 2 tháng 9 để mừng cả.
Sau 70 năm kể từ ngày bác tuyên bố mấy câu ấm ớ ở vườn hoa Ba Đình để thành lập nước “Việt nam to thế Việt nam mẹ sề” như người dân Hà Nội thêm vài ba cái dấu vào những khẩu hiệu bằng tiếng Anh kẻ vội vã trên những bức tường khắp Hà Nội: VIETNAM TO THE VIETNAMESE.
Đó là năm 1945, tính tới năm 2015 là đúng 70 năm. Nếu cứ tính 25 năm là một thế hệ thì nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi đổi thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã là có ba thế hệ người Việt sống dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam. Nhưng những điều hứa hẹn độc lập tự do hạnh phúc mà bác Hồ thuổng của anh Tầu Tôn Dật Tiên (thuyết Tam Dân: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) vẫn chỉ là những khẩu hiệu rỗng tuếch, những hứa hẹn nhảm nhí mà người dân bị nhồi nhét vào đầu. Độc lập tự do hạnh phúc đã trở thành trò cười khi bị bắt buộc viết cả vào trong những tờ đơn xin nghỉ học hay những hồ sơ li dị, tranh chấp vài ba chuyện nhỏ nhít trong đời sống không mấy hạnh phúc của một đất nước không độc lập mà cũng chẳng bao giờ tự do.
Mở miệng ra là ra rả khoe tự hào về đủ thứ nào là đánh thắng mấy đế quốc, lãnh đạo thì toàn là những đỉnh cao trí tuệ con người, đất nước thì đang trên đường tiến mau tiến mạnh tới thiên đường bánh vẽ, rồi để chỉ biến người Việt thành những thành phần bị khinh bỉ, bị kỳ thị vì những trò ăn cắp ở hết Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan … hay chỉ giỏi đi làm đầy tớ hay làm đĩ ở các nước ngoài và mới đây một số khá đông đảo còn bị chặn ngoài phi trường Singapore không cho nhập cảnh vì bị nghi là có những âm mưu không tốt đẹp du nhập vào Singapore.
Không thể tiếp tục đổ vấy những chuyện xấu xa ấy cho Mỹ Ngụy được nữa. Gần nửa thế kỷ áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản lên miền Nam đã khiến miền Nam cũng đã học được nhiều cái xấu xa của miền Bắc mà nếu cái chủ nghĩa khốn nạn đó không sớm ra đi thì tất cả những cái bẩn thỉu khốn kiếp sẽ hoàn toàn phủ chụp lên toàn thể một đất nước đã có một thời rất đẹp đó.
Trong ngày 2 tháng 9 vừa qua, lại diễn ra cảnh “bao nhiêu cờ kéo với đèn treo” (thơ Nguyễn Khuyến) rực một trời đỏ, đi đâu cũng thấy biểu ngữ ca ngợi chế độ đọc phát mệt. Nhưng trong số những băng rôn (banderole) treo đầy đường người ta tìm thấy một cái đọc lên nghe lại rất được. Tấm băng rôn này treo ở đâu thì không biết nhưng rõ ràng là được treo trên một con đường đẹp hai bên có cây xanh, nhà cửa ngăn nắp treo đầy cờ đỏ sao vàng. Tấm băng rôn có hàng chữ nguyên văn như thế này: MỪNG QUỐC KHÁNH 2/9 MỪNG NGÀY MẤT CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH.
Những chữ trên băng rôn xuất hiện liền nhau, cùng một hàng, không chấm phẩy gì hết để đọc nguyên một hơi tuồn tuột một lèo.
Đọc liền một lèo có thể là vì người ta coi hai biến cố đều quan trong ngang nhau và cùng xẩy diễn trong cùng một ngày. Nước ta lấy giỗ làm chạp, cử hành cà hai ngày cho tiện việc sổ sách, đỡ phải làm thành hai ngày như “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Nhập hai ngày làm một, để lỡ các nước, vì nghi lễ ngoại giao, có mừng quốc khánh nước ta thì cũng có lời mừng luôn cả bác Hồ.
Nhưng mừng gì cho bác Hồ? Mừng sinh nhật bác? Không. Mừng bác có cô Nông Thị Xuân cho vui đời cách mạng? Chắc không. Mừng bác không dính cái bầu số hai với cô Xuân? Không. Thế thì mừng cái gì liên quan đến bác bây giờ?
Thì liền được hai câu lục bát của nhà thơ Bút Tre gợi ý và giúp trí nhớ:
Tin đâu như sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần
Thế là viết cha nó hai chuyện vào cùng một dòng cho tiện việc. Làm luôn cho trẻ nó mừng. Mừng ai cũng vậy, mừng bác, tôi cám ơn. Thế là mừng uôn ngày mất chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bác chết, như thế là ngày 2 tháng 9 có hai quả mừng: mừng quốc khánh là một; điều mừng số hai là bác mất. Nói cách khác là bác chết.
Thông thường cứ mở nhừng trang cáo phó trên báo ra là người ta bao giờ cũng đọc được những câu như “chúng tôi đau đớn báo tin buồn” hay “tang gia đồng khấp báo” mặc dù có những người chết trong lúc còn sống cũng chẳng ra gì, chết đi là mọi người mừng vui, thở ra nhẹ nhõm. Nhưng không thấy có một sự mừng vui nào được nói lên, được rêu rao lớn ở khắp đầu đường xó chợ để mọi người hả hê vui mừng về cái chết của một thằng khốn nạn nào đó cả.
Đến nhà quàn viếng người chết, bắt tay những ngưởi trong tang gia mà nói “Xin góp vui với ông, với bà” thì chắc chắn là ốm đòn như truyện “tù lì tám tiền” mà Huình Tịnh Của kể hồi nào. Có bao giờ lại vui mừng vì một người ra đi đâu? Thế thì tại sao lại “mừng ngày mất chủ tịch Hồ Chí Minh”?
Một trường hợp “Freudian slip” chăng? Lỡ mồm lỡ miệng ư? Chắc không. Vì một tấm băng rôn như thế không thể là kết quả của những lầm lẫn của một người, mà phải là công việc của nhiều người. Phải duyệt đi duyệt lại không phải chỉ bởi một người. Mà phải là việc của nhiều người.
Hay là bây giờ, cuối cùng cũng đã có nhiều người thấy được chuyện bác chết là một điều vui mừng như chúng ta đã nghĩ từ bao nhiêu lâu nay? Bác sống chỉ làm bẩn đất nước mà thôi. Nên bác chết thì mừng là phải.