November 24, 2010

November 26, 2010

Ngày 22 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Chuyện này nếu xẩy ra cho tôi, thì nhất định tôi không phản đối gì hết. Trái lại, tôi nghĩ cứ lẳng lặng coi như không có gì xẩy ra là hơn cả.

Bởi lẽ họa hoằn lắm mới có chuyện hạnh phúc như thế đến với mình thì tại sao lại phải phản đối?

Trong đời, có một hai chuyện không thích làm, người khác làm hộ chẳng cũng khoái ư? Ông Kim Thánh Thán còn sống chắc sẽ phải viết thêm chuyện này vào danh sách những phút vui nhất của ông mất.

Hôm qua bản tin Associated Press gửi đi từ Luân Ðôn tường trình là một người đàn ông ở Cambridge cho biết miếng đất ông mua cho ông ở nghĩa địa thì mới đây đã có người "lấy" mất. Bản tin AP viết rằng người đàn ông 54 tuổi này mua sẵn miếng đất để chờ có lúc cần đến còn lôi ra dùng, nhưng tuần qua ông đi ngang đã thấy có người vào chiếm trước từ bao giờ.

Ông mua nó cách đây 13 năm, khi mới 41 tuổi, cái tuổi mà chúng ta chưa ai thèm nghĩ tới những chuyện xa xôi như thế. Lúc ấy mà có ai mời mua miếng đất, có khi lại được tặng cái đá vào đít mới phải. Nhưng người đàn ông lo xa này thì lại đi kiếm miếng đất để sẵn ở nghĩa địa thỉnh thoảng vào ngắm chơi cho... đỡ những cơn giận đời. Tuần trước, ông thấy có người dọn vào ở. Giấy tờ chứng minh ông là sở hữu chủ còn nguyên. Ông xuất trình và xin trục xuất kẻ chiếm ngụ bất hợp pháp miếng đất của ông. Cảnh sát cho biết sẽ đưa người cắm dùi bất hợp pháp đi chỗ khác để trả lại ông miếng đất.

Tại sao lại dại dột như thế?

Miếng đất bị chiếm ngụ, cho dù là bất hợp pháp đi chăng nữa, thì đó cũng vẫn là điềm Trời chưa muốn... kêu mình. Mà Trời chưa muốn kêu thì cứ nín thở, đừng có nhắc Trời mới phải chứ. Cớ chi cứ sáng ra mở mắt lại lắng tai, chờ nghe gọi tên mình là "Dạ có con đây!" thật to như trong tuồng hát bộ rồi cắm đầu cắm cổ chạy ngay ra nghĩa địa nhẩy xuống không thì muộn, sợ Trời ghét, Trời không thương là thế nào?

Chao ôi tại sao lại có cái thứ người ngốc thế! Lẽ ra, Trời có gọi mình thật thì cứ giả vờ nghễng ngãng tai, không nghe thấy, không dạ vâng gì hết trơn có được không!

Nay có đứa "Dạ" hộ cho mình, lại còn biết cả chỗ mình sắp nằm, tự động chạy đến nằm xuống, lấp đất lên... làm cứ y như mình thì tại sao phải thắc mắc? Cứ lờ đi có hơn không? Hay nếu muốn, thì kéo áo Trời, bảo Trời rằng "Trời gọi tui rồi nhá... Từ nay trở đi đừng có đụng vào cái tên của tui nữa nghe không Trời! Cho tôi yên nhá... Ngoéo tay cái coi..."

Ðằng này lại làm ầm lên, đòi cho bằng được miếng đất của chàng mới là kỳ.

Chàng còn nói là đòi lại để... dùng mới là ngớ ngẩn đặc.

André Maurois viết rằng thần chết rất dễ tính và sẵn sàng chiều những ai muốn đùa với thần chết.

Ðòi lại miếng đất rồi lại nói rằng để dùng là rõ ràng muốn chọc thần chết. Khích bác thần chết là điều rất không nên làm. Thần chiều kẻ đùa giỡn như ca sĩ Karaoke chiều theo lời yêu cầu của khán thính giả "thân thương", vung lưỡi hái lên thì còn chi đời sống?

Rõ là dại dột.

Ấy là chưa kể đến chuyện kẻ chiếm ngụ bất hợp pháp xuống trước, hẹn hò vài ba chị ma nữ khát tình lại chơi, bắt ông ta dọn đi chỗ khác, ma nữ tiếp tục đến quấy phá hàng đêm làm sao... sống cho được.

Chết chứ không đùa đâu.

Vì thế, ông bà nào làm vậy với tôi, thay tôi đi trước, đàng nào cũng đi, đi trước hộ tôi... tôi cám ơn. Chứ tại sao lại làm ầm lên như thế?


Ngày 23 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Ðáng lẽ chúng ta phải được đọc một cái Cáo Phó, hoặc trên tờ Paris Mach, hay tờ Le Figaro, tờ Le Monde, tờ L'Express... về sự ra đi vĩnh viễn của nó.

Nhưng bản tin về cái chết của nó chỉ được AFP cùng với một vài hãng thông tấn ngoại quốc loan đi một cách thản nhiên và được tờ nhật báo tôi đọc ở đây cho in ở trang trong, suýt nữa thì bị chôn lấp bên cạnh những cái tin vớ vẩn khác.

Tôi rất yêu nó. Nó ở với tôi cũng được cả hơn hai năm trời. Mà đó trong những năm tuổi trẻ, khoảng thời gian đẹp nhất của chúng tôi.

Ít ra, nó cũng nên được nhắc đến bằng mấy dòng trong cái Cáo Phó. Thí dụ cũng phải "Ðau đớn báo tin cùng thân bằng quyến thuộc" về sự ra đi của nó. Rồi thêm những chi tiết như sinh năm nào, ở đâu, chết ngày nào, hưởng thọ bao nhiêu tuổi. Gia đình có những ai, ở đâu (St. Quentin, đông bắc nước Pháp) vân vân.

Năm tôi với nó ở với nhau là năm 1960 ở Sài Gòn. Hơn hai năm sau thì nó bỏ tôi. Ðời sống đưa tôi đi bao nhiêu nơi chốn khác, gặp gỡ, thiết lập bao nhiêu những quen biết khác. Nhưng tôi vẫn giữ được bức ảnh tôi chụp với nó ở cổng ngôi trường trung học tôi đang theo học ở đó. Bức hình đen trắng chụp bằng chiếc Olympus half frame của Ðinh Ngọc Mô không rõ lắm nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn lôi ra xem. Trong hình, tôi đứng cạnh nó, tay đặt lên tay của nó. Hồi ấy nó còn rất đẹp.

Mấy tháng sau thì nó bỏ tôi đi luôn cho đến nay không bao giờ gặp lại nữa.

Nhưng đến nay, tôi vẫn nhớ nó, vẫn thỉnh thoảng nghĩ đến nó. Ðược gặp nó một lần nữa chắc vui lắm. Chúng tôi không bao giờ gặp lại.

Nó là cái Mobylette tự động ông cụ tôi mua cho tôi sau khi đỗ Trung Học Phổ Thông, phần thưởng mà ông đặt ra cho mấy chị em chúng tôi. Nó cù lần, thua xa những chiếc xe Ðức máy Sach hồi đó. Nó chạy không nhanh bằng những chiếc Fips, Capri, Puch... của những người bạn trong lớp. Nhưng nó vẫn giúp những buổi trốn học kỳ thú hơn rất nhiều. Nhờ nó, những buổi trốn học đưa chúng tôi đi xa hơn trước. Thủ Ðức, Thủ Thiêm gần hẳn lại. Những chuyến chạy qua chạy lại trước cửa một trường nữ trung học gần Sở Thú bỗng hào hứng hơn. Ðổ đầy bình xăng, chúng tôi đi cả tuần lễ mới hết. Trưa nắng ở cổng trường, có nó, quyết định vào lớp hay không vào lớp dễ dàng đi nhiều lắm. Thoắt một cái, chúng tôi giã từ giờ vạn vật và giờ lý hoá của lớp đệ tam, đệ nhị C để ở một ngôi chùa trong Chợ Lớn hay một vườn hoa ở Sài Gòn, ở bến tầu gần Hải Quân Công Xưởng ngó xuống sông Sài Gòn đầy váng dầu từ những chiếc tầu chạy qua...

Chiếc yên bằng mousse Ðinh Ngọc Mô lấy của ai gắn vào cho tôi chỉ để chở có người bạn này đi trốn học. Chúng tôi hiền lắm. Chưa có cô đầm, cô ta nào ngồi lên đó hết...

Chủ nhật bạn tôi đến nhà giúp chùi cho nó sạch láng để thứ hai còn có nó để trốn học tiếp.

Nó ở với tôi được hơn hai năm thì bị một người Việt Nam cùng quẫn nào đó lẻn vào trường dùng chìa khóa giả mở hai chiếc khoá, và dẫn nó đi biệt. Không biết người ấy bán nó được bao nhiêu, có nuôi được vợ con ngày nào không, hay là lại vài chục bi thuốc phiện theo khói bốc lên trời. Nó về đâu, đời sống của nó ra sao, thỉnh thoảng tôi cứ tự hỏi những câu hỏi đó về nó...

Bản tin AFP cho biết công ty Mobylette không sản xuất nó nữa. Nhà máy ở St Quentin sản xuất chiếc Mobylette cuối cùng, chiếc thứ ngoài ba mươi triệu từ khi chiếc đầu tiên ra đời năm 1949.

Như thế là cùng với chiếc 2CV, chiếc song mã yêu quí của tôi, chiếc Mobylette một thời thân thiết cũng vĩnh viễn bị ngưng sản xuất.

Nó sống được đến ngày hôm nay cũng là chuyện lạ. Trong những năm cuối của thập niên 50, nó bị xe Ðức cạnh tranh, rồi qua thập niên 60, là những chiếc xe gắn máy Nhật. Nhưng nó vẫn sống, vẫn tiếp tục góp mặt với đời. Trung thành và đáng tin cậy.

Sẽ có nhiều người nhớ nó. Mặc dù đã vài chục năm không ngồi lên nó, vặn cái tay ga, đạp lấy trớn cho nó nổ máy xẹc xẹc, khói ra mù mịt trên những con đường mùa mưa Sài Gòn của những năm tháng hiền lành và đời sống còn giản dị của chúng ta.


Ngày 24 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Tôi vẫn không thể tưởng tượng ra nổi là ở nước Mỹ lại có nhiều người cô đơn đến thế. Cô đơn đến độ phải mua những miếng giấy có in những cái môi son rồi tự bôi lên cổ áo, cố ý để cho người khác nghĩ rằng mình cũng có người tặng cho những vết son trên cổ áo, chưa phải là đồ bỏ, bị thế giới lãng quên, quanh năm suốt tháng cổ áo lúc nào cũng chỉ có cái... "ring around the collar " khiến mỗi lần giặt quần áo phải đổ nửa chai thuốc tẩy vào máy giặt cho sạch.

Làm như có vết son trên cổ áo là ghê lắm.

Tôi nhìn thấy sản phẩm mới này tối hôm qua khi ghé mua cái ca vát. Bên cạnh giá treo ca vát, là cái sản phẩm này, với hàng chữ: "... So that the world will know you are still very much desired!"

Người ta có thể mua về rồi đem miết miếng giấy đó lên cổ áo, lên ngực áo, lên lưng áo, in trên đó những vết son môi rất đậm nét, thì trị giá của người mặc cái áo có vết môi son ấy sẽ được tăng lên. Những vết son môi này càng tèm lem càng tốt. Và càng đậm càng làm cho thông điệp thêm phần ý nghĩa.

Khi có những vết son môi dính trên áo, chàng sẽ không còn trông như thứ ma chê, quỉ hờn, ế đến độ sắp... ẩm ra, mà là một con người vẫn còn tạo ra được những mơ ước thầm kín cũng như công khai của rất nhiều người.

Tưởng tượng các đồng nghiệp ở sở từ nay sẽ không còn dám khinh thường chàng như trước nữa. Cứ mỗi ngày một chiếc áo mới với vết son ở các vị trí khác nhau sau mỗi lần đi ăn trưa về là cả sở sẽ lo sợ, không khí trở thành xôn xao, bất ổn lên ngay.

Vinh dự biết là bao nhiêu! Các nam đồng nghiệp thì sẽ tới xin truyền dậy bí quyết, làm sao mặt mũi bặm trợn, nhan sắc không có, ăn nói vô duyên vậy mà cổ áo dính đầy son trông đáng ghét dễ sợ. Các nữ đồng nghiệp thì tìm mọi cách để chàng rủ đi ăn trưa một lần coi sức hấp dẫn của chàng như thế nào mà son môi dính đầy cổ áo mỗi ngày như thế...

Chàng cứ giả bộ như không biết, đến khi được chỉ cho thấy thì nhếch mép cười nhạt coi như đó là thế gian thường tình cho các anh chị điên lên vì ghen tức.

Ðó là ở sở làm, và đó cũng là trường hợp của những người đàn ông chỉ có đúng một cái bàn chải đánh răng trong buồng tắm.

Ở nơi những người có hơn một cái bàn chải đánh răng trong buồng tắm thì những miếng giấy có in sẵn môi son đó cũng không phải là không đem lại lợi ích cho người mua nó về dùng.

Nó có khả năng tạo chú ý lập tức khi bước chân vào cửa nhà lúc tan sở về. Không còn thái độ xem thường, coi Bụt chùa nhà không thiêng và gọi Phật ở ngôi chùa gần nhà bằng "anh" như vẫn làm nữa.

Mấy vết son trên cổ áo là những câu nói từ tốn, không cần hét lên, mà cũng không lên giọng mà phía bên kia vẫn hiểu rằng con giun xéo lắm cũng quằn đấy nhá... rằng (vết son) là lời kêu cứu (cho cuộc hôn nhân) đấy nghe chưa... đừng có lúc nào cũng hăm quăng ra đầu đường cho chó đớp nữa nhá... không phải chỉ ở tiệm phở mới có giá chín mà đây cũng vẫn còn giá lắm hiểu không...

Sản phẩm này được bán mỗi hộp có 6 miếng, đủ dùng cho một tuần. Mỗi miếng như vậy, giá chưa tới một đô la.

Chưa bao giờ tôi thấy một Mỹ kim làm được nhiều việc như thế.

Nhưng điều hay nhất của những vết son này là giặt sạch ngay, nên không cần phải xé luôn cái áo sơ mi có khi còn khá mới vứt vào thùng rác để về nhà được toàn thây như rất nhiều người đàn ông Mỹ phải làm.


Ngày 25 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

La Rochefoucauld là người chán ghét, khinh bỉ thế giới loài người, thế giới mà ông cho là trong đó, ngay cả những tình cám tốt đẹp nhất cũng chỉ là để phục vụ những quyền lợi hết sức riêng tư, cá nhân mà thôi.

Trong cuốn Maximes, ông viết một câu đại khái sự biết ơn, ở đa số con người, chỉ là một hy vọng rất mạnh mẽ, những bí mật, mong muốn có được những đặc ân, những ưu đãi lớn hơn. Ðiều đó có nghĩa là khi chúng ta cám ơn cuộc đời hôm nay về hạnh phúc của chúng ta, về những ân sủng mưa móc chúng ta nhận được, về những niềm vui nhỏ của những ngày qua, thì chúng ta cũng lại kín đáo xin với ơn trên đừng có lấy chúng đi mà hãy cho chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta đã có.

Cám ơn, tạ ơn nhưng vẫn không quên xin sỏ, nài nỉ để được cho thêm mới chịu.

Thực ra, La Rochefoucauld có hơi quá. Nghĩ lại, bạn sẽ thấy cuộc sống cũng có rất nhiều điều phải cám ơn. Cám ơn hạnh phúc đã có, và lại càng phải cám ơn nhiều hơn khi bất hạnh không xẩy tới nữa. Tôi bắt đầu nghĩ người Mỹ rất có lý khi để riêng ra một ngày để làm công việc đó, công việc mà đáng lý ra chúng ta phải làm mỗi ngày, đó là cám ơn những hạnh phúc đang có cũng như những khổ đau chưa tới...

Thí dụ cám ơn tiếng Việt, cám ơn Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân vẫn thỉnh thoảng về ghé thăm, cám ơn những gì Nguyên Sa, Bùi Giáng và Mai Thảo đã để lại. Cám ơn buổi chiều, cám ơn buổi sang, cám ơn đêm khuya, cám ơn người trở lại, cám ơn sự ân cần, cám ơn sự tốt đẹp, cám ơn sợi tóc, cám ơn mùi hương, cám ơn bàn tay, cám ơn những ngày cuối với người cha, cám ơn chuyến đi thảnh thơi, cám ơn sự ra đi nhẹ nhàng, cám ơn đời sống, cám ơn cái chết, cám ơn cặp kính, cám ơn cái xe hạng bét, cám ơn cái Big Mac, cám ơn tái nạm gầu gân sách, cám ơn sự trung thành, cám ơn những lá thư, cám ơn những cú điện thoại, cám ơn ngày hôm nay, cám ơn ngày hôm qua, cám ơn ngày mai, cám ơn cái dấu phẩy, cám ơn cái dấu chấm. Cám ơn Ðông Hồ, cám ơn Vương Hồng Sển, cám ơn tiếng nói, cám ơn trí nhớ, cám ơn sự quên lãng, cám ơn tính nhớ dai, cám ơn mì gói, cám ơn cơm đường, cám ơn cháo chợ, cám ơn cái chìa khóa, cám ơn cái thang máy, cám ơn Bud, cám ơn Michelob, cám ơn Miller, Heineken. Cám ơn người Mẹ, cám ơn bài hát ru còn mãi, cám ơn sự dịu dàng, cám ơn người dưng khác họ, cám ơn giọng Bắc kỳ, cám ơn giọng Trung kỳ, cám ơn giọng Nam kỳ. Cám ơn ly cà phê buổi sáng, cám ơn tờ báo, cám ơn cái ô chữ không khó quá, cám ơn cái bút, cám ơn cái nghiên, cám ơn anh đồ, cám ơn ngả nón trông đình, cám ơn ca dao, cám ơn tục ngữ, cám ơn tục ngữ rất... tục, cám ơn thỉnh thoảng biết chửi thề, cám ơn nói móc, cám ơn nói cạnh, cám ơn nói khóe, cám ơn nói xỏ xiên, cám ơn nói mát cám ơn cái đèn, cám ơn cái lap top, cám ơn những cuốn tự điển, cám ơn nói lái, cám ơn Hồ Xuân Hương, cám ơn Võ Phiến, cám ơn Ðặng Trần Côn, cám ơn chữ nghĩa truyện Kiều, cám ơn nói phét. cám ơn ăn tục, cám ơn sự vu khống, cám ơn sự... không (?) vu khống, cám ơn sự ngộ nhận, cám ơn sự bịa đặt, cám ơn người thầy cũ, cám ơn những năm thơ ấu, cám ơn những năm tuổi trẻ, cám ơn những năm sồn sồn, cám ơn menopause, cám ơn không menopause, cám ơn mùa đông, cám ơn mùa xuân, cám ơn mùa hạ, cám ơn mùa thu, cám ơn thơ Ðường, cám ơn Tagore, cám ơn lục bát, cám ơn các xóm nhà lá, cám ơn qui tắc tam xuất, cám ơn cái bảng cửu chương, cám ơn các thứ phim trong các kỳ thi, cám ơn cái tẩy, cám ơn cái gọt bút chì, cám ơn cái ngòi bút lá tre, cám ơn những năm ở Việt Nam, cám ơn những năm không ở Việt Nam, cám ơn người bạn cũ, cám ơn những người em, cám ơn cái Mobylette, cám ơn cái Solex, cám ơn cái Lambretta 120, cám ơn cái Deux Chevaux rất lễ phép, cám ơn những viên thuốc cúm, cám ơn Salompas, cám ơn cục xà bong, cám ơn dao cạo, cám ơn cái lược, cám ơn cái gương, cám ơn lọ keo xịt tóc, cám ơn sự ngớ ngẩn, cám ơn giọng hát trong buồng tắm không đi hát ở đám cưới, cám ơn sự vô duyên, cám ơn sự hồn nhiên, cám ơn những cuốn sách của Lê Bá Kông, cám ơn Thiều Chửu, cám ơn Nguyễn Văn Khôn, cám ơn Nguyễn Ðình Hòa, cám ơn Lê Văn Ðức, cám ơn Thái Thanh, cám ơn Phạm Ðình Chương, cám ơn Hội Trùng Dương , cám ơn Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa, cám ơn Nat King Cole, cám ơn Patti Page, cám ơn người bỏ trái tim lại Cựu Kim Sơn, cám ơn cái nốt ruồi vẫn còn trên môi Cindy Crawford, , cám ơn những ngày trốn học, cám ơn mùa thi, cám ơn Ðinh Ngọc Mô, cám ơn Vũ Kiện, cám ơn Nguyễn Quốc Trụ đại úy pháo binh dù, cám ơn những người còn sống và những người đã chết.. cám ơn kỷ niệm đã để lại, cám ơn...

Và như bạn thấy đó, La Rochefoucauld cũng không hoàn toàn đúng như trong ngày hôm nay...


Ngày 26 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Trong khi dân tộc Trung Hoa không gặp bất cứ một khó khăn gì trong chuyện giữ cho sự có mặt của họ trên mặt trái đất được tiếp nối, thì giống gấu trúc, một loài sinh vật sống tại quốc gia Á châu này lại gặp đủ mọi vấn đề trong việc truyền sinh. Giống thú này đang gặp nguy cơ tuyệt chủng nếu tình hình tiếp tục như hiện nay.

Hiện nay, giống gấu trúc chỉ còn khoảng một ngàn con ở những vùng núi non thuộc phía tây nước Trung Hoa. Mà môi trường sinh sống của chúng thì lại mỗi ngày mỗi bị thu hẹp lại vì dân số Trung Hoa mỗi ngày một tăng. Những khu rừng trúc, thực phẩm của loài gấu này càng ngày càng biến đi. Trong khi đó, giống thú này lại sinh sản ở một vận tốc mà đáng lẽ ra dân tộc Trung Hoa phải áp dụng mới đúng, đó là chỉ mỗi hai hay ba năm, gấu trúc mới sinh con một lần, và mỗi lần cũng chỉ có một con nuôi rất khó. Mọi nỗ lực để gây giống, giúp chúng sinh con đẻ cái ở các vườn thú chỉ đem lại kết quả hết sức khiêm tốn. Thế nên mới đây, theo tiết lộ của tờ Nhân Dân Nhật Báo số ra ngày hôm nay, các chuyên gia về gấu trúc của thế giới đã phải ngồi xuống viết một chương trình điện toán để giúp loài thú này kiếm được bạn, giúp gia tăng số gấu trúc trên thế giới, tiếp tục góp mặt với các sinh vật khác tránh khỏi nguy cơ tuyệt chủng như loài chó rừng ở Tasmania, như loài đại điểu ở Tân Tây Lan, như chim Hồng, chim Lạc ở Việt Nam.

Chương trình điện toán này sẽ phân tích các loại máu của tất cả những con gấu trúc đang sống tại các vườn thú trên thế giới, nghiên cứu gia phả của chúng và làm ông tơ, bà nguyệt để đem chúng lại với nhau. Chuyện này không phải là dễ vì tháng Tư năm nay, gấu trúc Ling Ling đã bị gửi trả về Nhật sau khi chàng không động tĩnh gì với ba chị gấu trúc ở vườn thú Mexico.

Chắc chắn chỉ vì Ling Ling và các nàng không hợp nhau nên mới không tiến xa hơn được. Trong chuyện này, không hợp nhau là không được. Bộ chưa bao giờ nghe câu "nếu hợp sẽ tiến xa hơn" hay sao?

Thế nên việc các chuyên gia về gấu trúc phải ngồi xuống họp với nhau rồi viết một chương trình điện toán để kiếm bạn cho những con gấu trúc này là chuyện thậm vô ích. Việc gì phải một chương trình điện toán? Cứ viết mấy dòng lời rao tìm bạn đăng lên những tờ báo phát hành tại các sở thú là có kết quả ngay chứ cần gì phải lặn lội với những cái chương trình điện toán?

Thí dụ viết thế này:

Gấu trúc cái, 3 tuổi yêu mầu trắng, thích mầu đen. Ngoại hình trên trung bình. Xấu đẹp tùy gấu đực đối diện. Mắt to, móng đã giũa, hiền khô, ưa trúc đen, tre bương và nứa, mê măng khô kho với thịt. Nhẩy đầm giỏi, hơi lãng mạn. Một lần dang dở, gấu con đã lớn, bỏ vào rừng mất tiêu. Hiện sống một mình trong sở thú X. Cô đơn. Muốn tìm một gấu đực từ 5 đến 7 tuổi đứng đắn, không tứ đổ tường, không phân biệt tôn giáo, biết xây dựng hạnh phúc, có học, trí thức yêu văn thơ và nhạc, không vướng bận, biết chia xẻ những tâm tình của gấu cái trong cuộc sống sở thú, tha thiết với đời sống gia đình với hai gấu lớn một gấu con chạy lút chút trong rừng trúc. Hứa hồi âm dù thư đến muộn. Nếu hợp sẽ tiến xa hơn. Xin cho số phone, e mail để liên lạc. Ưu tiên cho những gấu đực có hình.

Cứ như thế đăng lên, cam đoan các gấu đực ở khắp nơi sẽ điên cuồng gửi thư đến xin làm gấu cha ngay. Gấu con đẻ ra gạt đi không hết. Việc gì phải chương trình điện toán làm gì cho mệt. Mà chưa chắc kết quả đã tốt như đoạn lời rao giản dị như ở trên.


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


QUỲNH ANH:

Kính thưa quí vị, đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Lãm Thúy, Quỳnh Anh và Bùi Bảo Trúc xin kính chào quí vị.

Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần sẽ ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại cho chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày.

Tuần này, QA muốn hỏi thầy Trúc là trong Anh ngữ người ta có kiểu nói như chúng ta không, thí dụ chúng ta nói tết Công Gô, tết Ma rốc, ông ấy Lèo lắm không, nghĩa là có những thành ngữ dùng tên của các nước hay không?

BBT:

Có. Những idioms đó có khi tốt, có khi không tốt. Tiếng Anh có khá nhiều những idiom như thế. Nhiều nhất là những idiom liên quan đến những nước gần với nước Anh. Theo cô Thúy thì nước nào gần với nước Anh nhất?

LÃM THÚY:

Nước Pháp.

BBT:

Đúng như thế. Nước Pháp gần nước Anh. Hai bên có nhiều tiếp xúc với nhau. Chiến tranh với nhau cũng vài ba lần. Người Anh vừa yêu vừa ghét nước Pháp. Người Anh thích thức ăn của Pháp, ưa thời trang của Pháp. Nhưng lại không chịu được nước Pháp. Người Pháp cũng nghĩ về người Anh như thế. Nhưng người Pháp không ưa người Anh nhiều hơn là người Anh ghét người Pháp.

FRENCH LEAVE chẳng hạn. LEAVE là ra đi, rời bỏ, về, bỏ đi. FRENCH LEAVE là bỏ đi, về mà không báo, không nói, không chào ai cả. Đó là một hành động bị coi là bất lịch sự. Nhưng cũng có thể coi là một hành động không muốn làm phiền người khác.

QA

Như vậy là tốt chứ có gì xấu đâu thưa anh.

LÃM THÚY:

Thế người Pháp có bực về cái idiom này không?

BBT

Hình như là có. Thế nên trong tiếng Pháp, trò phú lỉnh, bỏ đi , len lén ra về, người Pháp nói là FILER À L’ANGLAISE. Ông nói tôi thế nào, thì tôi nói lại ông như thế. Ông bảo tôi là len lén đi như mấy ông Tây, thì tôi nói là len lén đi như mấy ông Ăng Lê vậy. Có điều là người Ý cũng có một lối nói hệt như vậy nhắm vào người Anh: FILARSELA ALL’INGLESE.

QA

Tại sao tiếng Anh lại có thành ngữ TO TAKE FRENCH LEAVE?

BBT

Thực ra, TO TAKE FRENCH LEAVE nguyên thủy có nghĩa là đào ngũ, bỏ đơn vị mà không có phép. Nó ra đời trong khi hai nước Pháp và Anh chiến tranh với nhau ở Bắc Mỹ. Quân Anh bắt được khoảng 140 binh sĩ Pháp gần hồ George ở New York. Các tù binh Pháp biết rõ địa thế vùng này hơn là lính Anh nên chờ đêm tối họ trốn trại, thoát ra ngoài. Thành ngữ TO TAKE FRENCH LEAVE có từ đó.

LÃM THÚY:

Anh nói là hễ cái gì xấu, người Anh đổ cho là của người Pháp. Ngoài thành ngữ TO TAKE FRENCH LEAVE, còn các thành ngữ nào khác nữa không?

BBT:

Khá nhiều, nhưng không thể nói ra trong một chương trình như thế này. Tôi chỉ kể thêm một thành ngữ nữa thôi. Đó là FRENCH POX. POX là bệnh giang mai. Nhưng tại sao lại phải thêm chữ FRENCH đằng trước thì tôi chịu thua. Cùng với thành ngữ này, những thành ngữ khác như FRENCH LETTER, FRENCH WAY, FRENCH TICKLER đều là những thành ngữ mang ý nghĩa tục tĩu.

QA:

Thế còn có những thành ngữ nào tử tế về nước Pháp không thưa anh?

BBT:

FRENCH CUFF là tay áo sơ mi, cổ tay lật lên để đeo khuy manchette. FRENCH HEELS là giầy cao gót phụ nữ. FRENCH FRIES là món khoai chiên. FRENCH DRESSING, FRENCH TOAST... Nhưng TO SMELL LIKE A FRENCH WHORE thì lại là nước hoa thơm lừng như một cô gái giang hồ người Pháp. Nghĩa là nước hoa rẻ tiền, mùi nồng nặc. Nói vậy là để mô tả một người có cảm quan về nước hoa hơi rẻ tiền.

LÃM THÚY:
Cạnh nước Pháp là nước Hà Lan, thế thì nước Anh có điều gì không ưa nước Hà Lan không thưa thầy?

BBT

Người Việt Nam chúng ta, khi đi ăn với bạn bè, vài người với nhau, một người đúng dậy trả tiền hết cho các bạn, chúng ta nói là ăn chơi kiểu Tây. Còn ai ăn trả tiền lấy cho mình thì chúng ta nói là ăn chơi kiểu Mỹ. Chúng ta nghĩ là người Pháp lịch sự, hào hoa. Người Mỹ thực tế, có chút bần tiện ở trong. Người Thái, người Argentine cũng nói giống như chúng ta: đi ăn tiệm kiểu Mỹ, ai ăn nấy trả.

Nhưng người Anh thì không nói như thế. Ăn uống ở tiệm mà người nào trả cho người ấy, tiếng Anh nói là TO GO DUTCH. Thí dụ LET’S GO DUTCH nghĩa là đi ăn, ai ăn người ấy trả.

QA:

Có khi nào hai người đi ăn, là bạn trai, bạn gái, trả riêng không thưa anh?

BBT:

Có chứ. Đọc ANN LANDERS hay DEAR ABBY cô sẽ thấy đàn bà Mỹ vẫn để cho đàn ông trả tiền khi hai người là bạn, đi chơi với nhau. Nhưng khi chia nhau cái BILL, mỗi người trả một nửa phần của mình thì đó là DUTCH DATE hay DUTCH TREAT.

LÃM THÚY:

Có phải vì người Anh không ưa người Hà Lan không thưa anh?

BBT

Không phải. Đó là kiểu ăn chơi ngày xưa ở Hà Lan thật. Nhưng nước Anh có vài ba lần chiến tranh với Hà Lan nên ý nghĩa của nó trở thành xấu đi. TO GO DUTCH có nghĩa là bần tiện, bủn xỉn, keo kiệt, không hào phóng, khó thương.

Thí dụ DUTCH UNCLE là một người khó tính, hay lên lớp, mắng mỏ người khác như khi nói: HE TALKS LIKE A DUTCH UNCLE nghĩa là nói như bố người ta không bằng.

Chữ DUTCH WIFE có vài ba nghĩa khá lý thú. DUTCH WIFE là cái gối ôm. Có lẽ muốn ám chỉ người đàn bà lạnh lùng. DUTCH WIFE còn có nghĩa là một cô gái điếm, một cái bình nước nóng để đem vào giường ngủ trong những đêm lạnh. Tiếng thường dùng là HOT WATER BOTTLE hay HOTTIE.

DUTCH COURAGE là liều lĩnh trong lúc say rượu chứ thực ra thì là người có tính chết nhát.

QA:

Bữa nọ QA thấy con trai QA nói IT LOOKS LIKE GREEK TO ME khi QA in một bài viết bằng tiếng Việt bằng máy computer của nó. Máy của cháu không in được tiếng Việt vì không có dấu. Tại sao lại nói như thế?

BBT:

Câu IT LOOKS hay IT SOUNDS LIKE GREEK TO ME có nghĩa là nghe chẳng hiểu gì hết, đọc không biết là viết cái gì. Bản in của QA chạy từ máy in ra đọc không được vì không có dấu Việt ngữ, toàn những dấu cộng trừ thì nói là IT LOOKS LIKE GREEK TO ME. Cũng có khi người ta nói IT SOUNDS LIKE CHINESE TO ME, nghe như tiếng mấy ông Tầu nói chuyện với nhau.

LÃM THÚY:

Thế còn tên nước Trung Hoa có bị đem ra bêu diếu như vậy không ?

BBT:

Tên nước Trung Hoa có xuất hiện trong một số trường hợp, nhưng bảo là bêu diếu thì không. Hơi hơi chê thì có. Thí dụ khi nói IT LOOKS LIKE IT WAS MADE IN CHINA nghĩa là món hàng đó phẩm chất không tốt như được làm ở bên Trung quốc. Bây giờ thì lại càng đúng sau những vụ sữa nhiễm độc, đồ chơi trẻ em có chất chì vân vân.

CHINESE ORANGE trước đây vài ba thế kỷ có nghĩa là quả táo. CHINESE GOOSEBERRY là quả KIWI. CHINESE RESTAURANT SYNDROME là hội chứng nhà hàng Tầu nghĩa là ăn thức ăn có nhiều bột ngọt về bị ngứa và khát nước thì nói như thế.

QA:

Còn có những tiếng nào dùng những chữ chỉ quốc tịch ở trước nữa không anh?

BBT:

Có chứ. CHINA không viết hoa là đồ sứ. TURKEY là con gà lôi, nhưng nếu viết hoa thì là tên của một quốc gia nằm giữa Âu châu và Á châu ...

LÃM THÚY:

Nước Thổ Nhĩ Kỳ phải không anh? TURKISH BATH QA nhớ là phòng tắm SAUNA, phòng tắm hơi. Còn SIAMESE TWINS là gì?

QA:

QA biết rồi, đó là trường hợp hai anh em hay chị em sinh đôi nhưng còn dính vào nhau, không tách hẳn ra phải không thưa anh?

BBT:

Đúng. Chữ này được chế ra để gọi hai anh em người Thái Lan gốc Hoa được đưa từ Thái sang Mỹ hồi thế kỷ 19 để xuất hiện tại các rạp xiếc . Hai người dính vào nhau ở phía sườn. Một ông là ENG một ông là CHANG . SIAMESE TWINS là anh em sinh đôi đồng bào dính vào nhau . Tiếng chuyên môn gọi là CONJOINED TWINS. Gọi là SIAMESE vì tên của của Thái Lan là SIAM, là Xiêm La.

LÃM THÚY:

Nhân nói đến tên của các quốc gia, Thúy muốn hỏi những danh từ chỉ quốc tịch tại sao có khi có số nhiều, có khi chỉ viết số ít. Thí dụ như Vietnamese thì số nhiều và số ít viết như nhau, mà KOREAN thì số nhiều có chữ S là KOREANS.

BBT

Thúy nói đúng. Những danh từ chỉ tên người dân của các nước tận cùng là ESE thì không thay đổi khi ở số nhiều hay số ít. Thí dụ CHINESE, JAPANESE, CONGOLESE, MALTESE, PORTUGUESE...

Những danh từ chỉ quốc tịch ở cuối là ISH cũng thế, nhiều ít viết giống nhau. Thí dụ ENGLISH, POLISH, IRISH, BRITISH, FLEMISH, SPANISH ...

Các tên tận cùng bằng AN thì số nhiều cứ thêm S vào là được. ITALIANS, MOROCCANS, ALGERIANS, HUNGARIANS, RUSSIANS, CUBANS...

QA:

Có tên của người dân Phi Luật Tân làm QA bối rối hết sức.

BBT

Nuớc Phi Luật Tân tên tiếng Anh là THE PHILIPPINES hay REPUBLIC OF THE PHILIPINES.

Tiếng Phi là FILIPINO viết vói chữ F ở đầu.

Người Phi là FILIPINOS, nói chung. Nhưng nếu là phụ nữ thì là FILIPINA. Số nhiều thì thêm S ở cuối.

LÃM THÚY:

Thúy hay nghe người ta nói ME TOO. Nói vậy có đúng không?

BBT:

Đó là lối nói thường nghe, hơi lười biếng một chút, để bầy tỏ những trường hợp tương tự, đồng ý với nhau. Nhưng nếu nói cho đúng thì phải nói khác.

ME TOO là ME ALSO, là I DO TOO, là I AM TOO.

Thí dụ một người nói I AM VIETNAMESE, tôi cũng là người Việt, thì tôi nói I AM VIETNAMESE TOO. I AM ALSO VIETNAMESE. I TOO AM VIETNAMESE, I ALSO AM VIETNAMESE.

Nhưng chúng ta hay nói là ME TOO. Đúng, nhưng chỉ dùng trong văn nói, SPOKEN ENGLISH.

QA

Đó là trong trường hợp QA đồng ý với câu nói nghe được trước đó.

Nhưng nếu đồng ý về một chuyện phủ định thì chắc phải khác phải không thưa anh? Thí dụ người ấy nói I DO NOT DRINK COFFEE thì QA không thể nói ME TOO được có đúng không?

BBT

Đúng. Phải nói NO, NOT ME, I DON’T.

Hay nói đúng hơn, phải là NOR DO I. Nghĩa là tôi cũng không. Nếu động từ trong câu đó là thì hiện tại. Nếu động từ trong câu chính là PAST TENSE thì QA nói thế nào? Thí dụ tôi nói I DID NOT LIKE THAT MOVIE...

QA

NOR DID I phải không thưa anh?

BBT

Đúng như thế. Còn cô Thúy, nếu tôi dùng câu có động từ trong thì tương lai thì cô nói thế nào? I WON’T GO AWAY FOR THE HOLIDAYS.

LÃM THÚY:

NOR WILL I.

BBT

Đúng. Chúng ta dùng động từ TO DO cho các động từ khác trừ động từ TO BE, CAN, WILL, SHALL, COULD, SHOULD vân vân. QA, I WAS NOT IN HUE DURING TET 1968, HOW ABOUT YOU?

QA

NOR WAS I, SIR. I COULD NOT SWIM AT ALL, HOW ABOUT THÚY?

LÃM THÚY:

NOR COULD I.

BBT

I STUDIED ENGLISH IN HIGH SCHOOL, HOW ABOUT YOU, QA?

QA

SO DID I. I DID TOO.

BBT

YOU NOW UNDERSTAND THE OTHER WAYS TO SAY ME TOO .

LÃM THÚY:

SO DO I, AND SO DOES QUỲNH ANH ...

BBT

Các cô đều đã hiểu rõ mấy điểm chúng ta vừa đề cập. Còn gì các cô muốn chúng ta nói trong bài hôm nay nữa không?

QA:

QA muốn nhờ anh chỉ cho một vài idioms với chữ HAND được không?

BBT

Tôi biết QA có hai cô con gái. Quần áo cô chị để lại cho cô em gọi là gì QA biết không?

QA:

Có, đó là những thứ mà con gái QA gọi là con-không-mặc-đâu-mua-cho-con-áo-mới.

BBT

Vâng đúng là như thế. Nhưng tiếng Anh thì là gì? QA biết không?

QA

QA nghe hai đứa con gái gọi những thứ ấy là HAND-ME-DOWN JEANS, HAND-ME-DOWN SHIRTS phải không thưa thầy. QA mệt với mấy cô con gái hết sức. Nhất định I DON’T WANT THOSE HAND-ME-DOWN CLOTHINGS.

BBT

Nếu muốn nói đừng có đụng tay vào, đừng có thò tay vào, đừng có can thiệp vào thì nói thế nào cô Thúy?

LÃM THÚY

Hôm đã lâu, Thúy đọc một bản tin trong báo có câu này: THE RUSSIANS TOLD MISTER BUSH TO KEEP HIS HANDS OFF GEORGIA. Có phải vậy không? TO KEEP THE HANDS OFF là không đụng vào, không can thiệp, không nhúng tay vào.

BBT

Đúng . Thế TO GIVE SOMEBODY A HAND là gì QA?

QA

QA nghĩ là giúp ai một tay phải không thưa anh? Thí dụ QA tối nay về nhà sẽ gọi con để nhờ chúng giúp mang mấy bao đồ ăn mua ở chợ về. QA nói thế này có đúng không: CAN YOU GIVE ME A HAND BRINGING THE GROCERY BAGS INSIDE?

BBT

Đúng. Thế còn TO GIVE SOMEBODY THE HAND là gì Thúy?

LÃM THÚY:

Thúy nghĩ như thế cũng là giúp ai một tay phải không QA?

QA

Khi ông thầy hỏi như vậy thì chắc không phải vậy đâu. QA nghĩ đó là nhận lời cầu hôn của ai phải không thưa thầy?

BBT

Đúng. TO ASK FOR SOMEBODY’S HAND là cầu hôn một người nào. Xin bàn tay, cho luôn bàn chân là đồng ý nhận lời cầu hôn.

QA

Cám ơn thầy Trúc. Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến đây tạm chấm dứt. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin cảm ơn sự theo dõi của quí vị và xin hẹn gặp lại quí khán giả trong chương trình tuần tới.

November 18, 2010

November 19, 2010

Ngày 15 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Trong khi giá cả của hầu như tất cả mọi thứ thương phẩm, dịch vụ trên thế giới đều gia tăng, thì có một thứ, ít nhất là một thứ, không những giá cả không tăng, mà còn xuống một cách thảm hại là đằng khác.

Món danh chẳng hạn. Món này có lúc đắt ghê gớm, nhưng bây giờ thì lại rẻ mạt. Ngày xưa - không biết ở thời điểm nào - có lúc món danh này trị giá đến ba mươi ngàn đồng. Món tiền ba mươi ngàn đồng Vạn Lịch (thích bốn chữ vàng) hay ba mươi ngàn đồng Bảo Ðại thì cũng vẫn là những khoản tiền lớn hơn năm chục Mỹ kim của ngày hôm nay rất nhiều. Vậy mà với năm chục Mỹ kim ngày nay, người ta có thể mua được món hàng bán với giá ba chục ngàn trước kia dễ ợt.

Thuở ấy, muốn mua danh, người ta phải chi ba mươi ngàn đồng. Bán nó đi, thu về được ba đồng đã là may lắm. "Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng," là câu tục ngữ ghi lại giá cả của món hàng này vào lúc ấy.

Ngày nay, muốn mua tí danh để thỏa mãn cái háo (?) trong người, những con người háo danh chỉ cần chi có năm mươi Mỹ kim là có ngay cái... danh "thi sĩ" cho mẹ cháu phục điên lên, quyết kiếp sau lại tìm cho được chàng để lấy, bỏ cho đứa khác lấy mất thi sĩ của đời mình tưởng không còn có gì phí uổng cho bằng.

Những chuyện như thế, chuyện mua cái danh rẻ rề, số người không biết bao nhiêu, ngoài chính những người mua chúng, bởi lẽ các đương sự, sau khi bỏ vài chục Mỹ kim ra, thì không muốn người khác biết cái danh rất rẻ đó của mình, nên dấu biệt như mèo dấu những thứ trong ruột chúng thải ra. Mãi cho đến khi chương trình Prime Time của hệ thống truyền hình ABC lôi chuyện này ra nói cho cả nước biết, người ta mới vỡ lẽ là món danh bây giờ rẻ mạt.

National Library of Poetry năm nào cũng dụ những người thích danh bằng những bức thư gửi đến tận nhà, ân cần mời gửi thơ đến dự thi, hứa nếu được chọn, sẽ được in vào tuyển tập thơ cùng với các nhà thơ khác. Các nhà thơ mầm non cũng như mầm già mừng quá, tưởng tượng ra cảnh võng loïng nghênh ngang về hù mẹ cháu và mấy người bạn dễ tin, bèn lôi ra những đống cóc và nhái chứa trong mấy cái hũ nút ra, gởi cho National Library of Poetry, theo đúng lời yêu cầu của những lá thư viết hú họa nhận được trong đống junk mail. Chờ đợi ít ngày thì tất cả đều được hồi âm của National Library of Poetry loan báo thơ đã được chọn. Bức thư yêu cầu "nhà thơ" gửi cho năm chục đô-la để thanh toán phí tổn in thơ

Không một "nhà thơ" nào từ chối đề nghị tiền bạc đó. Không những thế, các "nhà thơ" này còn gởi tiền đặt mua thêm năm, bẩy cuốn khác, mỗi cuốn trị giá năm chục để tặng bạn bè và mấy em bé "thục nữ chỉ mê thơ" như trong thơ Ðinh Hùng cho các em mê chết bỏ luôn cả các "nhà thơ" cho bõ ghét. Chỉ chi ra có năm chục Mỹ kim mà thành "nhà thơ" thì làm sao mà từ chối cho được.

Vì thế mà trò bịp lấy tiền này năm nào cũng kiếm được tiền của những thứ háo danh điên cuồng đó. Các "nhà thơ" này sau khi có thơ in trong tuyển tập, liền long trọng thông báo cho bạn bè thân quen biết rằng các chàng đã trở thành nhà thơ Mỹ đàng hoàng để mức độ khinh miệt dành cho các chàng trước đó được cắt giảm đi đôi chút. Mà phải cắt giảm chứ. Ðừng có tưởng Ăng lê ở đây ấm ớ. Ăng lê này làm được cả thơ, lại được phong tước hiệu "thi sĩ quốc tế" chứ ít sao. Các "nhà thơ" này sau đó, có chàng còn mở tiệc mừng, mời bạn bè, họ hàng đến nhâm nhi cái danh vọng lớn các chàng vừa mang về. Các chàng còn gà cho vài ba nhà báo viết bài khen nhặng lên, so sánh các chàng với Octavio Paz, T. S. Eliot, e.e. cummings, Robert Frost... khiến mấy ông nhà thơ này lăn lộn không yên dưới mồ mãi. Tội nghiệp biết là chừng nào!

Chương trình Prime Time của ABC chắc cũng điên người vì các "nhà thơ" này nên đã phải gửi một phái viên đi làm phóng sự về các nhà thơ này và để xem sự tuyển chọn thơ được thực hiện như thế nào

Phái viên của đài tới một trường tiểu học nọ, nhờ các em học sinh lớp Hai, những em chưa bao giờ biết luật thơ, kỹ thuật thơ, phương pháp ẩn dụ, so sánh trong thơ, cách hiệp vần, cấu tứ... là gì, viết mỗi em một bài thơ. Phái viên giúp các em đánh máy lại, in ra bằng computer cho đẹp và gửi tới National Library of Poetry. Thế rồi đúng như phái viên của ABC đã đoán được từ trước: tất cả thơ của các nhà thơ nhi đồng này đều được... tuyển chọn để in trong tuyển tập. Tất cả đều được yêu cầu gửi cho National Library of Poetry số tiền năm chục Mỹ kim để có thể trở thành "nhà thơ" hệt như mấy cậu háo danh to đầu khác.

Chỉ khác là các em học sinh lớp Hai này, khi được thông báo thơ của các em được chọn để in và nhà xuất bản cần năm chục Mỹ kim của các em thì các em đều hét ầm lên "Give me a break!" trước ống kính thu hình của đài ABC.

Chứ các em không kiếm bộ smoking, đeo cái nơ đen, mở cái party ăn mừng được tặng cái danh "thi sĩ quốc tế" bao giờ.

Nói và viết tiếng Việt cả đời cũng làm gì có chuyện ai cũng có thể trở thành Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa... đâu. Thế thì tại sao lại nghĩ rằng Ăng lê học vài ba năm có thể làm thơ được bằng tiếng Mỹ?

Bao nhiêu triệu người Ấn mới có được một Rabindranath Tagore? Rõ khổ thân.

Hay đã đến lúc phải tăng cái giá... danh hão này lên chút xíu nữa cho kịp với tốc độ tăng giá của... nước mắm?


Ngày 16 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Tôi vẫn còn chiếc áo của Banana Republic bạn mua cho tôi hơn 10 năm trước và thỉnh thoảng vẫn lôi nó ra mặc, trong những chuyến đi xa, hay trong những ngày nóng như hôm nay.

Như vậy là kích thước của nó và của tôi vẫn không thay đổi từ hơn 10 năm nay. Nó không chật đi hay rộng ra chút nào. Chúng tôi không khó chịu về kích thước của nhau như nhiều cặp khác.

Trong cái hộp đựng nó mà bạn gửi cho tôi, có một tờ giấy nói về chiếc áo mà Banana Republic gọi là correspondent's jacket, áo ký giả, tôi vẫn còn giữ. Ðoạn viết ngắn nói rằng chiếc áo cho người mặc nó nhiều tự do, trong đó có cả tự do di chuyển, những thứ mà các thông tín viên của thông tấn xã TASS và của nhật báo Pravda, hai cơ quan thông tấn của Liên Bang Xô Viết thường không có. Ðoạn văn viết thật khéo khiến người mặc nó, chưa làm báo bao giờ cũng muốn bỏ việc đang làm để đi làm báo.

Muốn gọi là correspondent's jacket hay safari jacket thì nó cũng chỉ là một. Có điều nó phải may bằng kaki mầu cát sa mạc Sahara, 4 túi, có cầu vai để khi đeo chiếc Leica hay chiếc Nikon khỏi bị tuột, trên túi ngực trái, là những cái túi nhỏ để đựng mấy cuộn phim 35mm, vai bên phải được lót thêm một lớp vải độn bông ở trong để khi gác lên vai, khẩu Remington bắn đạn thủng da voi khỏi làm đau vai Ernest trong những lúc chàng lần mò theo dấu chân bầy sư tử ở Serengeti dưới chân núi Kilimanjaro...

Và cứ mỗi lần mặc nó vào, là lại như nhìn thấy Ernest đứng trong khung cửa sổ của Grand Hotel des Iles Boromeés ở Stresa ngó xuống hồ Maggiore tại Ý, hay khi chàng quì bên cạnh con trâu rừng vừa bắn được trong một chuyến đi săn ở Phi châu, hay khi chàng cúi trên chiếc máy chữ, tay cầm chiếc bút Montblanc hai mầu đen và đỏ hí hoáy sửa bản thảo bằng những chữ trông như những đoạn dây kẽm soắn vào nhau.

Ernest Miller Hemingway, ông già và biển cả, giã từ võ khí, mặt trời cũng mọc, chết lúc xế trưa, bên kia sông trong những lùm cây, tuyết núi Kilimanjaro, chuông gọi hồn ai... ra đời ngày 21 tháng 7 năm 1899. Một viên shot gun tự bắn vào họng năm 1961 biến chàng thành bất tử . Thỉnh thoảng người ta lại tìm thấy một cuốn sách chưa in của chàng: A Moveable Feast, Island In The Stream, và mới đây, True at First Light.

Những thứ chàng đụng tay vào , đều như có ma thuật biến thành những vật được bao nhiêu người yêu mến. Cách viết hết sức giản dị, không một dấu chấm than trong bằng ấy trang sách, những chữ "and" đếm được ở mỗi dòng như kéo, như giữ người đọc ở lại với chàng...

Và luôn cả cái kiểu áo chàng mặc, cũng thành một món thời trang: Hemingway Safari Jacket mà bạn gửi cho tôi.

Trước đây, tôi chỉ nghĩ cái áo đó làm cho đời sống tôi giản dị đi được khá nhiều: không phải ủi cho thẳng nếp, vì Ernest không bao giờ nhà quê như thế. Không thể mặc cái áo đó mà lại còn nguyên hồ cứng sột soạt mỗi lần cử động. Ðể sư tử nghe thấy nhẩy tới vồ chết hay sao? Không ủi là phải.

Vì thế , nó đỡ hẳn cho người đàn ông giaø naøy việc đứng lom khom loay hoay với cái bàn ủi mỗi lần lôi nó ra mặc.

Nhưng một vài chi tiết trong cuốn tiểu sử Hemingway của Kenneth S. Lynn lại còn có thể khiến cho đời sống của nhiều người giản dị đi rất nhiều hơn thế nữa.

Kenneth S. Lynn kể rằng một lần, Martha Hemingway có việc phải đi xa, bà đã phải cẩn thận nhờ một người bạn chăm sóc chồng hộ vài ba ngày. Martha dặn bạn rằng phải để ý ông hề (the big clown) này, nhớ nhắc chàng cạo râu, tắm rửa mỗi khi ra đường... Kenneth S. Lynn viết rằng trong câu dặn dò tuy có nét đùa nghịch trìu mến ở trong, nhưng chuyện Ernest ở dơ lúc đó đã bắt đầu khiến cho Martha phiền hà không ít. Nàng gọi chàng bằng một cái biệt hiệu khác, vừa âu yếm, vừa hơi chút bực bội: "The Pig".

Hemingway ở bẩn.

Chao ơi, sao mà tuyệt diệu như vậy! Không những từ nay, chiếc safari jacket đó không cần phải ủi thẳng nếp (đã làm), mà còn có thể mặc ít nhất 1 tuần không cần giặt.

Ði săn (sư tử, tê giác, trâu rừng) hay đi săn tin thì cái áo có 1 tuần không giặt cũng chẳng sao.

Thế là lại càng có thêm lý do để thích Ernest hơn nữa, ngoài văn chương của chàng.


Ngày 17 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Hơn hai năm trước, Hallmark tung ra bán những tấm thiệp có viết sẵn vài câu, để người mua gửi đi, chia xe nỗi buồn đau của những con chó, những con mèo bất hạnh vừa bị những nhát dao mổ làm cho đời chúng không bao giờ bình thường nữa.

Loạt thiệp đó có số tiêu thụ rất đáng kể, mặc dù người ta không biết có bao nhiêu con chó, bao nhiêu con mèo đau khổ thực sự đọc được những dòng chữ an ủi trong thiệp. Cứ tưởng tượng trong lúc cái đau còn nhoi nhói, những vết khâu còn quá mới, chưa bắt đầu lành, con vật khốn khổ đang trốn tuốt trong góc nhà xe, nét kinh hoàng vẫn còn nguyên trên mặt, mà có người tìm đến tận nơi, quăng tấm thiệp mua ở tiệm xuống trước mặt, dẫu cho là thiệp chia buồn, thì ngay đến người cũng còn sợ chết khiếp nói chi đến con chó, con mèo vừa bị thiến.

We heard you have been fixed. We did not know you were broken... Chúng tôi nghe nói cậu vừa bị đem đi chỉnh trang. Chúng tôi đâu có biết cậu bị trục trặc bao giờ đâu... Câu an ủi cố làm ra hài hước đó có lẽ không nên để những con chó hay những con mèo đó đọc được thì tốt hơn. Khôi hài không đúng chỗ là vậy.

Nhưng Hallmark không ngừng ở đó. Hôm qua vào tiệm sách gần sở, toâi thấy một mẫu thiệp mới của Hallmark. Tấm thiệp có hình vẽ một con chó đang đứng nhìn về một căn nhà ở phía xa, nằm giữa những ngọn đồi, một làn khói bốc lên từ ống khói, cảnh thật bình yên. Họa sĩ vẽ rất khéo làm người xem thấy ngay là con chó có vẻ luyến tiếc căn nhà, căn nhà nó vừa rời bỏ. Bên trong là mấy câu chia buồn về sự ra đi của nó. Chó chết chưa hết chuyện. Nhưng Hallmark chắc chưa có cố vấn khá, chứ nếu có, thế nào chẳng in thêm câu cầu chúc hương linh nó được sớm tiêu diêu miền cực lạc, khỏi sa chân vào nồi rựa mận, chả chìa oan nghiệt...

Thiệp đầu tiên là để gửi cho nó khi nó bị đường dao tàn ác, thiệp thứ hai là để gửi cho chủ nó, khi nó giã từ cõi đời.

Tôi có cảm tưởng Hallmark sẽ không ngừng ở tấm thiệp thứ hai này. Thành công này nhất định sẽ kéo tới những thành công khác. Vậy thì Hallmark sẽ còn vẽ ra những chuyện gì nữa?

Thì chắc là thiệp sinh nhật, thiệp ngày chó mẹ và ngày chó bố (để những S.O.B. tức là đồ chó đẻ - son of a bitch - mua gửi) thiệp mừng năm mới, thiệp báo hyœ...

Mà tại sao không? Phải có cái thiệp báo cho mọi người biết chuyện ngày lành tháng tốt của nó chứ. Cũng phải vài dòng chữ đại khái ông bà XYZ trân trọng báo tin lễ thành hôn của Fido và Belle vào ngày... tháng... năm... tại gốc cây bạch dương cạnh vòi nước cứu hỏa góc đường Oak và đường Elm street. Có thể thêm vài ba chi tiết như Fido đã tốt nghiệp trường vâng lời, từng đi quân dịch trong lực lượng quân khuyển, có chích ngừa bệnh dại đàng hoàng, tuy còn trẻ nhưng đã có được sự nghiệp đang lên trong ngành gác dan, còn Belle thì giòng dõi trâm anh thế phiệt, rặt giống Yellow Labrador mấy đời làm chó săn, cũng tốt nghiệp trường vâng lời, lại từng là chó cảnh sát chuyên lùng bạch phiến ở phi trường, chưa cắn bậy ai, chưa móc thùng rác bao giờ, không sủa dai từ nửa đêm sang suốt sáng, lầu bầu, laûi nhải không lúc nào để cho Fido yên thân... Mối tình của đôi trẻ làm mềm lòng hai họ nên hai gia đình đành tác hợp cho chúng vân vân...

Mà nếu đã như vậy thì cũng phải có thiệp mừng đôi tân hôn trăm năm hạnh phúc, con cháu đầy đàn, đến đầu bạc răng long chứ. Rồi thiệp chúc lành bệnh, mau phục hồi sức khỏe, thiệp mừng vừa chấm dứt được xong những món nợ trả cho những con chó con, mừng ra khỏi được một liên hệ khủng khiếp, thiệp vừa thoát bị xe bắt chó vồ, thiệp mừng vừa được chuộc ra khỏi phú de, thiệp mừng vừa cắn gẫy cẳng con pit bull du côn ở đầu ngõ...

Chao ôi cứ thế là Hallmark có chuyện để làm, có sản phẩm mới tung ra đều đều, làm cho nước Mỹ càng ngày càng giầu mạnh. Những tấm thiệp như vậy sẽ bán chạy ào ào không thua gì tấm thiệp đầu tiên phân ưu cậu chó cậu mèo bị thiến.

Thế nên vào một lúc nào đó, bước chân vào tiệm bán các loại thiệp, thế nào chẳng có cảnh vài ba con chó kéo nhau vào mua thiệp gửi cho chủ sủa ủng oẳng loạn xạ lên vì không đồng ý được là mua cái nào vừa đẹp vừa rẻ để an ủi ông chủ vừa bị lôi đi làm vasectomy - tiểu giải phẫu cắt ống dẫn tinh - để trừ... hậu họa.


Ngày 18 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Mấy tháng trước, hôm tới một ngôi chùa để dự lễ cầu siêu cho ông cụ người bạn, trong khi chờ làm lễ, tôi tò mò đi xem những bức ảnh thờ bầy trong chùa. Tôi không nhận ra được một người nào quen trong những bức ảnh đó. Nhưng hình như bức nào cũng như kể ra được khá nhiều điều về cuộc đời của những người trong ảnh.

Có những bức ảnh rất đẹp, khi chụp, người trong ảnh chắc chẳng bao giờ nghĩ là có ngày những bức ảnh đoù của mình lại được đem bầy ở một ngôi chùa, mà lại một ngôi chùa ở Bắc Mỹ. Những người trong ảnh thuộc đủ các lớp tuổi khác nhau. Người đẹp, người không đẹp, người quần áo oai vệ, người cái áo bà ba bên cây dừa, người vấn tóc trần đẹp như bức họa của Tô Ngọc Vân, người thì vừa như từ một bức chân dung của Thái Tuấn bước ra. Trong số những bức tôi thấy ở chùa hôm ấy, có hai bức cứ đi theo tôi mãi từ đó cho đến nay.

Một bức là ảnh mầu, chụp một thiếu tá trong không lực Việt Nam Cộng Hòa. Người quân nhân trong ảnh còn trẻ, mặc quân phục đại lễ, huân chương hai ba hàng trên ngực. Ông qua đời sau năm 1975 tại một trại cải tạo ở Bắc Việt. Mấy chi tiết đó được gia đình cẩn thận ghi dưới bức ảnh.

Bức kia là hình đen trắng chụp một người lính tôi không rõ chöùc vuï vì tôi không biết gì về lon lá. Người quá cố trong hình có một khuôn măt hốt hoảng. Chắc ông không quen chụp ảnh. Bức ảnh có thể là bức duy nhất trong đời ông. Hình chụp trong một tiệm ảnh, đằng sau có phông vẽ phong cảnh, có cành cây, có tháp Rùa ở xa. Ông đội mũ lưỡi trai có một huy hiệu tròn với ngôi sao ở trong. Tuy là ảnh đen trắng, nhưng tôi đoán ngôi sao chắc phải mầu vàng và cái nền chắc mầu đỏ. Bộ quân phục của ông không phải laø của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông là một quân nhân miền Bắc. Theo hàng chữ ở dưới, ông tử trận ở Lào. Bức ảnh chắc phải là bức đẹp nhất ông để lại cho gia đình.

Hai bức ảnh, một của ông thiếu tá không quân Việt Nam Cộng Hòa, một của một quân nhân miền Bắc, phục vụ trong hai quân đội đối nghịch nhau suốt mấy chục năm trời thì nay được đặt cạnh nhau trong một ngôi chùa ở California. Mãi đến lúc có ngôi chùa Phật ở nước Mỹ, và hai gia đình sang đến quốc gia thứ ba này, hai ông mới được ở bên cạnh nhau.

Ông quân nhân miền Bắc, nếu còn sống, tuổi tác chắc cũng phải trên dưới saùu mươi. Ông thiếu tá phi công Việt Nam Cộng Hòa có thể hơn ông quân nhân miền Bắc một hay hai tuổi. Ông quân nhân miền Bắc tử trận ở Lào, trước năm 1975 nên ông không thể là người đã giết ông thiếu tá không quân miền Nam năm 1980. Và ông thiếu tá không quân, thì những quả bom dưới cánh của chiếc AD-6 hay chiếc F-5 hay chiếc A-37 của ông không thể gây ra cái chết ở mặt trận cho ông bộ đội miền Bắc vì phi cơ của ông không đánh bom ở Lào bao giờ.

Bây giờ, cả hai ông đều đã qua đời. Ông bộ đội khó có được nấm mồ tử tế ở dọc đường mòn Hồ Chí Minh. Ông thiếu tá không quân Việt Nam Cộng Hòa cũng chỉ được vùi nông đâu đó ở một bìa rừng Bắc Việt gần bên trại cải tạo mà ông đã bỏ mình sau mấy năm học tập.

Gia đình ông thiếu tá không quân đã ở Mỹ. Gia đình ông bộ đội Bắc Việt cũng đang ở Mỹ.

ở một nơi khác, thí dụ như ở Việt Nam, ảnh thờ của hai ông chắc chẳng thể nào có dịp được đặt gần nhau như trong chùa Dược Sư ở California.

Nếu hai ông còn sống, thì cũng khó có thể có cảnh hai người đứng cạnh nhau ở Hà Nội hay Sài Gòn. Trước năm 1975 cũng không. Mà sau năm 1975 thì lại càng không thể có chuyện như thế xẩy ra được.

Gia đình của hai ông nhất định thỉnh thoảng cũng ghé chùa thắp hương cho hai ông. Những lần lên chùa như thế, hai gia đình chắc chắn phải nhìn thấy hai bức ảnh được đặt bên cạnh nhau. Hai bức ảnh được chùa đặt bên cạnh nhau một cách tình cờ hay có chút chủ đích ở trong? Làm sao mà biết được. Nhưng có điều khá chắc chắn là hai gia đình không xin để cho hai bức ảnh được xếp cạnh nhau.

Xin cho hai bức ảnh được đặt bên cạnh nhau ở chùa thì chắc là không. Nhưng gia đình ông thiếu tá không quân chắc cũng không đòi đưa bức ảnh thờ của ông ra một nơi khác, một hàng khác, xa bức ảnh đen trắng của ông lính Bắc Việt, một tên ác ôn côn đồ Cộng phỉ. Nên bức ảnh mới tiếp tục nằm cạnh bức ảnh thờ người bộ đội.

Và gia đình của người lính Bắc Việt chắc cũng không yêu cầu nhà chùa đưa bức ảnh của ông ra chỗ khác, không ở gần ảnh thờ một sĩ quan Ngụy từng mang rất nhiều nợ máu với nhân dân. Nên bức ảnh đen trắng vẫn tiếp tục ở bên cạnh bức ảnh mầu của người đàn ông mặc quân phục đeo một bông mai bạc trên vai.

Trước dẫy ảnh thờ không có bát hương nên có muốn thắp hai nén hương cho hai ông cũng không được. Nhưng nếu có bát hương, thì tôi chắc tôi đã làm như thế. Cũng như nếu có đi qua sông Gianh, thấy có cái mồ, có sẵn thẻ hương, bạn có thắp lên, gắn xuống mộ không? Chắc là có. Bạn đâu còn thắc mắc người nằm đó là phía họ Trịnh hay là phía Nguyễn nữa đâu.

Tôi cũng có một đứa em họ chết mất xác ở Trường Sơn. Cô tôi đến giờ vẫn còn đau. Cô tôi không bao giờ nói rằng em họ tôi đi Nam để đánh Mỹ cứu nước bao giờ. Cô tôi chỉ nói là thằng P. chết mất xác. Nói đến nó, cô tôi bao giờ cũng khóc. Sau khi được tin nó chết, cô tôi quay ra nghiện rượu.


Ngày 19 tháng 11 năm 2010

Bạn ta,

Tôi nghĩ không gì có thể thay đổi nhiều hơn là cách con cái gọi cha mẹ trong khoảng thời gian trên dưới nửa thế kỷ nay ở những gia đình mà tôi biết.

Gia đình tôi chẳng hạn. Thế hệ ông bà cụ tôi thì chưa thấy có "ba me." Lối gọi đó, "ba me," vào thời điểm ấy tối tân quá, tân thời quá, thành thị quá, Tây quá. Tôi chưa thấy ai thuộc thế hệ ông bà cụ tôi gọi các bậc sinh thành là "ba me" bao giờ cả. Hồi đó hầu như luôn luôn là "thầy mẹ" hay "thầy u" hay "thầy đẻ." Có khi không là "u" hay "đẻ" mà là "bầm" hay "bu." Lối gọi đó thấy ít đi trong những năm 40, 50 và về sau.

Thế hệ ông bà cụ tôi, nếu ở thành phố, và nếu có đi học, thì bắt đầu dạy cho con cái gọi là "ba, me," và với một số khá đông khác, gọi là "cậu, mợ."

"Cậu, mợ" tuy không Tây như "ba me" nhưng nghe đã có vẻ tối tân, không còn nhiều chất đồng ruộng nữa. "Cậu mợ" đã thấy đầy không khí Ngày Nay, Phong Hóa, trường Bưởi, trường Bảo Hộ, Hà Nội, Tự Lực Văn Ðoàn, thơ Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, văn Khái Hưng, Nhất Linh, nhạc Tây thì Tino Rossi, Maurice Chevalier, tài tử Charles Boyer...

Thế hệ ra đời trong những năm 1940 hình như được cha mẹ dạy để dùng lối xưng hô này, cùng với "ba me" nhiều nhất. Những người bạn tiểu học của tôi thời đó, nếu bố là công chức, mẹ vấn tóc trần, ngôi lệch và áo dài Lemur, quần trắng, tân thời một chút, thì nếu không gọi "ba me," nhất định phải là "cậu mợ." Thời mới lớn của tôi, lối gọi "thầy u," "thầy đẻ" đã bắt đầu thấy ít đi. Hầu hết là những người lớn hơn tôi hẳn một thế hệ, 25 năm, mới gọi như thế. Ở trường học, phe gọi "thầy u" hay "thầy đẻ" bị coi là nhà quê, không thành thị và thiếu văn minh, thường là mấy cậu không ở Hà Nội, ông cụ bà cụ không biết nói tiếng Tây và không được dẫn đi ăn kem Bờ Hồ, xem ciné ở Cửa Nam... chúng tôi vẫn nghĩ như thế.

Ngay cả lối gọi "cậu mợ" của mấy chị em tôi, nhiều lúc chính tôi cũng thấy hơi... nhà quê, so với bọn gọi "ba me" ở trường. "Ba me" nghe Tây hơn "cậu mợ," chắc vì lối gọi đó nghe gần với tiếng Pháp hơn. Cha mẹ bọn gọi "ba me," tôi nghĩ, vẫn có cái gì sang hơn, giàu hơn, Tây hơn, văn minh hơn, tiến bộ hơn phe gọi "cậu mợ" chúng tôi.

Nhưng lối gọi "cậu mợ" của chúng tôi cũng bắt đầu bị dẹp khi thế hệ này lập gia đình, có con cái. Thập niên 60, 70 bắt đầu thấy xuất hiện trở lại lối gọi "bố mẹ," lối gọi trước đó bị chê là xưa cũ, cổ lỗ không kém gì "thầy u" hay "thầy đẻ" của thế hệ ông bà cụ tôi, thế hệ Luân Lý Giáo Khoa Thư mặc áo the, đội mũ liège trắng, đi guốc, học trường tỉnh, đỗ xéc ti phi ca, đỗ đít lôm, đỗ bắc, hát "J'ai deux amours"...

Rồi chính lối gọi "cậu mợ" lại bị chính cái thế hệ dùng nó đào thải. Tôi cho là nó có nguyên do tâm lý ở trong. Dạy con dùng lại lối gọi cha mẹ của mình (cậu mợ) người ta sợ nghe cũng có vẻ già đi, chậm tiến, thiếu nét hiện đại như thế hệ trước của mình. Lối gọi "bố mẹ" tuy cổ xưa, nhưng cái gì lâu không dùng, đem ra dùng lại, tự nhiên lại thấy mới.

Tôi nhìn thấy điều đó khi đưa đón đứa con trai đầu lòng đi học ở ngôi trường mẫu giáo hồi còn ở Sài Gòn. Trong lúc đợi nó ở trong lớp chạy ra, tôi nghe những đứa bạn nó thẩy đều gọi cha mẹ đến đón ở cổng trường là "bố mẹ." Thế hệ con tôi không gọi "cậu mợ" nữa. Gọi "ba me" cũng thấy ít đi. "Ba má" vẫn còn là số đông ở miền Nam. Nhưng phe "bố mẹ" vẫn là phe rất đáng kể.

Bây giờ, thế hệ gọi "bố mẹ" đã bắt đầu lấy vợ, lấy chồng, có con cái. Ở trong nước, không rõ chúng dạy con cái gọi chúng là gì, nhưng lũ con tôi, khoâng còn có đứa dạy con gọi chúng là "bố mẹ" nữa. Bọn cháu nội ngoại của chúng ta có nhiều phần sẽ gọi cha mẹ chúng là "mom," "dad."

Và như thế, bốn thế hệ trong thế kỷ này mà chúng ta đang sống, mỗi thế hệ đã dùng một lối gọi riêng để gọi cha mẹ. Trong khi nhìn sang nước Mỹ, lối gọi cha mẹ của họ không hề có những đổi thay ghê gớm như của chúng ta trong một khoảng thời gian quá ngắn như thế.

Tại sao có hiện tượng này và ý nghĩa của nó như thế nào, rồi đây thế nào cũng có người trở lại tìm cách giải thích.

Mà đó là không nói đến những lối gọi không chính thức sau lưng các cụ như "ông via, bà via," "ông bô, bà bô," "ông già, bà già"...

Chúng tôi vẫn tiếp tục dùng những lối gọi được dạy cho dùng từ hơn nửa thế kỷ nay, phải chăng việc giữ nguyên cái lối gọi đó cũng cho chúng tôi cái cảm tưởng còn trẻ thơ, còn bé chăng.

Chúng tôi cho là việc được dùng những lối gọi đó trong hơn nửa thế kỷ là một trong những hạnh phúc lớn nhất của chúng tôi.


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


(Bài số 92)

Bản ghi chép do Lãm Thúy thực hiện. Bài học số 92 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 11 năm 2010.

QUỲNH ANH:

Đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy, và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.

Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại. Mời thầy…

BBT

Là người ăn nhờ ở đậu với tiếng Anh từ mấy chục năm nay, tôi có cảm tưởng dường như tất cả người Anh, ai cũng có câu cám ơn ở cửa miệng. Trong một ngày không biết họ cám ơn bao nhiêu lần. Từ bộ Anglais Vivant, đến những đĩa nhựa 78 vòng của Linguaphone và Assimil, những bài học thứ nhất bao giờ cũng có câu cám ơn.

LÃM THÚY

Thúy cũng thấy điều đó. Nhưng Thúy thấy hình như có nhiều cách để cám ơn trong tiếng Anh lắm. Cũng là TO SAY THANKS cả, nhưng lúc thì THANK YOU, lúc thì THANKS, lúc thì THANKS A LOT… QA thấy vậy không?

QA

QA cũng thấy mấy đứa con không chỉ nói THANK YOU như QA, mà còn nhiều cách khác nữa phải không thưa anh?

BBT

Đúng thế. Trẻ con trong các gia đình Anh và Mỹ đều được dậy nói câu cám ơn ngay từ lúc còn rất nhỏ. Thỉnh thoảng quên thì bị bố mẹ nhắc ngay: SAY THANK YOU… DON’T FORGET TO SAY THANK YOU…

Một đứa cháu lúc mới 4 tuổi của tôi đã có lần phải nhắc: YOU FORGET TO SAY THANKS, ÔNG NỘI!

LÃM THÚY

Như thế này có phải là nhắc không thưa anh? THANK YOU FOR NOT SMOKING!

BBT

Đúng vậy. Đó là một câu nhắc nhớ, hay để răn đe vậy. Nhắc khéo nhưng cũng cương quyết lắm đấy chứ. TO THANK SOMEBODY FOR SOMETHING là cám ơn ai về một chuyện gì, về một việc gì đó. Cái SOMETHING đó có thể là một danh từ hay một GERUND, một danh động từ tạo thành bởi một động từ và cái đuôi ING đằng sau: VERB+ING. QA cho một thí dụ coi.

QA

I MUST THANK MY PARENTS FOR MY BEAUTIFUL CHILD HOOD.

WE MUST THANK AMERICA FOR OPENING DOORS TO THE REFUGEES.

BBT

Còn cô Thúy?

LÃM THÚY

Có bữa Thúy nghe cô con gái nói THANK YOU MẸ, Thúy hỏi FOR WHAT? thì con gái nói : FOR LETTING ME WEAR YOUR SHOES… Làm Thúy tưởng được cám ơn về những chuyện gì ghê gớm lắm. Thúy còn thấy người ta nói THANKS A LOT! THANKS A MILLION!

QA

QA thì nghe THANKS A GREAT DEAL! THANKS A BUNCH! THANKS A DOZEN! Nhưng những câu này có thể dùng trong những trường hợp cần phải có lễ nghi, lịch sự … như khi đi gặp nữ hoàng Anh không? Hỏi cho biết chứ QA chắc khó có dịp đi gặp nữ hoàng lắm.

BBT

Cô QA hỏi câu rất hay. Trong những dịp cần phải ăn nói FORMAL thì chúng ta không nói những câu cám ơn mà hai cô vừa kể. Chỉ trong những lúc INFORMAL chúng ta mới dùng những câu cám ơn như ở trên mà thôi.

Riêng cách nói THANKS A MILLION thì cũng có khi được dùng với nghĩa hơi mỉa mai một chút. Mỉa mai và cũng có khi đùa bỡn. Lại có khi giận dữ nữa. Trong những trường hợp đó, người ta phải nói gằn từng chữ một.

LÃM THÚY

Như trong những lúc nhanh nhẩu đoảng, thật thà hư chẳng hạn. Thí dụ như khi Thúy đang nấu một món trên bếp, có người đổ nửa chai nước mắm vào thì chắc phải nói THANKS A MILLION! mất thôi.

QA

Hay khi không xe của mình bị quẹt một cái, không hư hại gì nặng, nhưng nhất định phải THANKS A MILLION! mới hết tức.

BBT

Trong trường hợp hai cô nhờ người ta làm một chuyện gì đó, thì nói THANKS A MILLION IN ADVANCE có được không?

QA

Được chứ sao không? Cũng như THANK YOU FOR NOT SMOKING vậy phải không thưa anh? Chưa thấy người kia mở bao thuốc ra, nói chặn đầu cho người ấy bỏ ý định hút thuốc vậy.

BBT

Đúng thế. IN ADVANCE là trước. Cám ơn ông trước là THANKS A MILLION IN ADVANCE.

LÃM THÚY

Như vậy chắc phải có những trường hợp cám ơn trước để phía bên kia đừng làm nữa phải không thưa anh? Vì THANK YOU IN ADVANCE là cám ơn trước, cám ơn về việc người ấy sắp làm, và việc làm đó có lợi, tốt đẹp cho chúng ta. Nhưng khi nghe một đề nghị không hay lắm, một đề nghị không thể nhận được mà cứ nói THANKS A LOT thì phía bên kia nghe mừng quá, cứ thế mà làm thì phải nói thế nào?

BBT

Cô QA đã bao giờ bị một đề nghị như thế, một đề nghị không hấp dẫn lắm mà cô không muốn nhận chưa?

QA

Có. Thí dụ con trai QA một bữa nói là bao giờ thi xong sẽ đưa QA đi lặn chụp một ít hình với cá mập ở ngoài khơi California Baja chẳng hạn. Như vậy thì phải nói gì thưa anh? Nói I DON’T THANK YOU FOR ASKING được không?

BBT

Nói như vậy thì đúng ý, nhưng người Anh và người Mỹ có cách nói khác: THANKS BUT NO THANKS! Hay cũng có khi nói THANKS BUT NO!

LÃM THÚY

Thúy phải nhớ cách nói này để trả lời một đề nghị mà Thúy cứ phải nghe hoài, ít nhất cũng hai lần rồi.

BBT

Chắc đề nghị đeo cái nhẫn 5 carats vào tay của cô chứ gì?

LÃM THÚY

Thúy thấy câu THANKS BUT NO THANKS! dễ nghe hơn là cám ơn ông, tôi không thích đùa phải không QA?

QA

Thế dùng câu này được không thưa thầy? THANKS AWFULLY! QA biết AWFUL là xấu. Thí dụ nói THE CAR LOOKS AWFUL là cái xe trông xấu hết sức. Với AWFUL là tĩnh từ, thêm cái đuôi LY vào cuối, chúng ta có trạng từ AWFULLY. Vậy THANKS AWFULLY là cám ơn một cách … xấu xa là không cám ơn phải không thưa anh?

BBT

Không phải vậy. Trong trưòng hợp THANKS AWFULLY! Thì lại là cám ơn nhiều, cám ơn nhiều kinh khủng.

Trạng từ AWFULLY này rất kỳ lạ. Nó không chỉ có nghĩa là một cách xấu xa như QA nghĩ. Nó còn có nghĩa là rất nhiều . Thí dụ nói THAT IS AWFULLY NICE OF YOU thì lại có nghĩa là ông / bà quả thật là người hết sức tử tế. Vì vậy AWFULLY NICE, AWFULLY KIND, AWFULLY SWEET thì những tĩnh từ NICE, KIND, SWEET được AWFULLY làm cho mạnh thêm, mà thôi. Trong tiếng Việt chúng ta cũng nói đẹp dễ sợ, hiền ác và tử tế kinh khủng.

LÃM THÚY

Thúy còn thấy một trường hợp này nữa… đó là tĩnh từ BAD và trạng từ BADLY. QA có gặp những trường hợp như thế chưa?

QA

Có. Đó là lần con trai QA xin tiền mẹ mua đôi giầy mới. Cu cậu nói … MOM, I NEED IT BADLY… I WANT IT BADLY… I WANT IT SO BAD…

BBT

Hai cô có những cậu con trai, những cô con gái dễ sợ thật. Xin nói ngay ở đây rằng hai chữ DỄ SỢ mà tôi vừa dùng cũng lại có nghĩa ngược lại… chúng chỉ có nghĩa là hay quá, giỏi quá mà thôi.

Bây giờ đố hai cô TGIF là gì?

LÃM THÚY

Thúy biết. Cũng nhờ nghe các con của Thúy nói chuyện với nhau. TGIF là THANK GOD, IT’S FRIDAY. Cám ơn Thượng Đế, đã là thứ Sáu rồi.

QA

Thưa anh, QA vài lần nghe THANKS TO nhưng không biết cách dùng , xin anh chỉ cho cách dùng, và khi nào thì dùng nó.

BBT

THANKS TO có nghĩa gần như DUE TO. THANKS TO là nhờ ở, cùng nghĩa với DUE TO. Nhưng DUE TO nghĩa là bị. BECAUSE OF đứng giữa THANKS TO và DUE TO. Khi một chuyện nào đưa tới những sự tốt đẹp thì chúng ta dùng THANKS TO. Khi những chuyện không hay xẩy ra, chúng ta dùng DUE TO. Thúy cho nghe một hai thí dụ với THANKS TO coi.

LÃM THÚY

THANKS TO HIS GOOD GRADES, MY SON IS GOING TO COLOMBIA NEXT YEAR

THANKS TO HER MOTHER’S GENES, SHE LOOKS WONDERFUL IN HER FIFTIES.

BBT

QA cho nghe hai thí dụ với DUE TO coi

QA

DUE TO THE RAIN, THE PICNIC WAS CANCELLED

DUE TO THREE SPEEDING TICKETS, HIS INSURANCE IS VERY EXPENSIVE

BBT

Hai cô có thể thay THANKS TO và DUE TO bằng BECAUSE OF mà ý nghĩa không thay đổi. Mời cô Thúy…

LÃM THÚY

BECAUSE OF HIS GOOD GRADES, MY SON IS GOING TO COLOMBIA UNIVERSITY

BECAUSE OF HER GOOD GENES, SHE LOOKS WONDERFUL IN HER FIFTIES.

BBT

Mời cô QA.

QA

BECAUSE OF THE BAD WEATHER, THE PICNIC WAS CANCELLED

BECAUSE OF THREE SPEEDING TICKETS, HIS INSURANCE IS VERY EXPENSIVE

BBT

Đó là một số những cách nói cám ơn trong tiếng Anh. Nhưng khi nói, giọng lên xuống cũng làm cho ý nghĩa của câu cám ơn khác nhau. Nói cám ơn vừa vừa thôi thì chúng ta xuống giọng một chút ở cuối. Nhưng khi nói cám ơn một cách sung sướng, thật tình, hết lòng, người ta lên giọng ở cuối, ở chữ YOU.

LÃM THÚY

Thưa anh, thường thì Thúy chỉ nghe THANK YOU mà thôi. Nhưng có khi nào người ta nói đầy đủ cả chủ từ lẫn động từ không?

BBT

Có. Nhưng đó là khi chúng ta nói FORMAL một chút. I THANK YOU FOR YOUR GREAT HELP. Thí dụ khi tổng thống Obama ra đọc bài diễn văn Tình Trạng Liên Bang tại quốc hội.

Nhân đây, tôi cũng muốn hai cô biết thêm chữ TA. Chữ này cũng có nghĩa như THANKS. Chữ này hai cô sẽ nghe thấy khi đi New Zealand hay vùng Midland của nước Anh. TA được dùng trong những trường hợp INFORMAL như trong gia đình, bạn bè. Không bao giờ nói TA YOU. Chỉ nói TA là đủ.

TO GIVE THANKS TO là cám ơn ai đó. Từ nhóm chữ này, chúng ta có THANKSGIVING. Nhớ là phải có chữ "S" ở giữa THANK và GIVING. Hoa kỳ và Canada đều cử hành lễ Thanksgiving. Ở Canada, Thanksgiving là ngày thứ HAI thứ 2 trong tháng 10. Ở Quebec , ngày Thanksgiving có tên là Jour de l’Action de Grâce. Ở Mỹ là ngày thứ Năm thứ 4 của tháng 11. Nhiều gia đình khi ngồi vào bàn ăn, một người trong bàn sẽ đại diện để cám ơn Thượng Đế đã ban cho bữa ăn. Việc đó tiếng Anh gọi là gì cô QA?

QA

Đó là TO SAY THANKS phải không anh?

BBT

Không phải. Đó là TO SAY GRACE.

QA

Cám ơn ông thầy. WE WANT TO THANK YOU FOR THE LESSON . THANKS A GREAT DEAL. THANKS A MILLION.

Bài học Anh ngữ thứ 92 của chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày của Hồn Việt Television tạm chấm dứt ở đây. Chương trình sẽ trở lại trên màn ảnh Hồn Việt Television trong bài học tới. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin gửi lời chào tạm biệt quí vị.