USEFUL IDIOTS
Ít lâu sau khi cuộc
cách mạng Bolshevik thành công đưa Cộng sản lên nắm quyền ở Nga,
Lenin đã nghĩ ra được một danh từ hay tuyệt để gọi bọn trí thức Tây
phương chạy theo bám lấy đít Cộng Sản mà hít hà. Lenin gọi bọn này
là polezniye duraki, tiếng Anh gọi là useful idiots,
những thứ xuẩn động nhưng có ích (cho Cộng sản), là bọn thấy cái gì
của Cộng sản cũng khen lấy khen để, rồi quay ra chống lại tất cả
những cái tử tế của những xã hội đã cưu mang chúng.
Bọn xuẩn động ấy
không phải chỉ xuất hiện ngay sau cách mạng tháng 10 rồi nhanh chóng nhìn ra
những sai quấy của Cộng sản để tỉnh ngộ, mà chúng còn tiếp tục ngu muội, xuẩn
động trong nhiều năm sau nữa. Có những thứ không nhìn thấy được những lầm lẫn
của bon xuẩn động đi trước để tránh những vết xe đổ mà không đi theo những con
đường ngu dại của bọn đi trước. Chúng vẫn nhắm mắt lao đầu vào những lối đi đầy
những sai lầm đó nhiều năm sau, cả sau khi Cộng sản làm rơi những chiếc mặt nạ
chúng dùng để che cái mặt thật xấu xa của chúng.
Đó là những George
Bernard Shaw, Langston Hughes, Jean Paul Sartre, H.G. Wells, Doris Lessing,
Walter Duranty, Paul Robeson… Một vài người trong số đó, sau ít năm cũng phản
tỉnh, nhìn ra được những sai lầm của mình. Nhưng một số vẫn tiếp tục ngu muội
cho đến chết.
Ở Việt Nam cũng có
những thứ cơm không ăn, cứ cứt mà đớp mới chịu. Nếu chỉ lôi cứt ăn với nhau
không thì kệ xác nhà chúng nó. Nhưng chúng nó ăn cứt xong rối còn kéo cả miền
Nam xuống cái lỗ trồ bằng những việc làm ngu xuẩn đó của chúng. Kéo cả nước
xuống cái hầm cứt rồi chúng được đền bù, ban phát cho một vài ơn huệ. Những thứ
như Dương Quỳnh Hoa, Ngô Bá Thành, Huỳnh Liên, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Lê
Hiếu Đằng, Nguyễn Đăng Trừng, Nguyễn Ngọc Lan…
Gặp phải vài ba điều
bất mãn, có đứa tuyên bố vài ba câu rồi tiếp tục làm con hến, câm luôn. Có đứa
viết nguệch ngoạc vài dòng chữ xin bỏ đảng nêu lý do đảng không còn đi theo con
đường tốt đẹp trước nữa. Mất hơn bốn mươi năm nằm trong chăn mới thấy được mấy
con rận hay sao? Trí thức, có học, có bằng cấp mà phải mất hơn bốn mươi năm mới
lơ mơ thấy như vậy ư?
Một trong những tên
đó là Lê Hiếu Đằng. Đằng học luật ở Sài Gòn rồi đi theo Cộng sản trong những
năm 60 và 70. Sau năm 75, Đằng về thành được trao cho những chức vụ đáng kể. Gần
chết thì tuyên bố bỏ đảng, muốn đảng thay đổi mà đảng không thay đổi. Viết xong
mấy câu bỏ đảng thì lăn ra chết.
Đúng là một useful
idiot.
Tuần trước thì một
tên useful idiot khác bị đảng đạp ra ngoài. Tên này bị đảng khai trừ chứ
không xin ra khỏi đảng. Nguyễn Đăng Trừng học luật, từng là chủ tịch Tổng Hội
Sinh Viên Sài Gòn nhiệm kỳ 67-68. Sau vụ Mậu Thân, Nguyễn Đăng Trừng vào bưng,
được kết nạp vào đảng năm 1971. Sau năm 1975, Trừng được trao giữ nhiều chức vụ
quan trong khác trong các lãnh vực an ninh, chính trị, tư pháp. Chức vụ cuối
cùng của Trừng là chủ nhiệm luật sư đoàn TPHCM.
Như vậy, Nguyễn Đăng
Trừng là người biết rất rõ bên trong đảng Cộng sản Việt Nam, biết rất rõ những
sai lầm, xấu xa, tồi tệ của bọn cầm quyền, của đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng
trong suốt hơn bốn chục năm sống với bọn chó má ấy, Trừng câm như hến, không
một lần dám mở miệng. Trừng vẫn muốn bám vào đảng Cộng sản để sống cho đến khi
đảng không còn thấy Trừng có ích cho chúng nữa thì Trừng mới bị đá ra ngoài.
Đúng là một thứ
useful idiot. Khi không còn useful nữa thì tên idiot bị đá
không thương tiếc.
Trừng là trí thức,
lại theo đảng từ gần nửa thế kỷ mà còn không sống được với đảng chứ những cái
thứ như vài ba tên hề diễu dở từ Mỹ về Việt Nam êu ếu diễn xuất vài ba giọt nước
mắt cá sấu vô duyên mà ngay mấy tên cán bộ hạng bét còn ngó một cách khinh bỉ thì
ăn thua gì. Thật đúng là:
Chuông khánh còn chẳng ăn ai
Huống chi mảnh chĩnh, mảnh chai đầu hè
Huống chi mảnh chĩnh, mảnh chai đầu hè
CHÙA
Tại sao Việt Nam
không nhiều chùa như ở Miến Điện, Tây Tạng hay Sri Lanka thì hơi lạ.
Người Việt Nam ai cũng thích chùa cả vậy mà lại … ít chùa hơn các
nước Phật giáo vừa kể thì quả là có kỳ cục thật.
Nhưng vài ba chuyện
mới xẩy ra gần đây lại khiến cho người ta tin là chuyện chùa miếu của người
Việt Nam sẽ lại càng ít thấy hơn nữa.
Chả là vì các nhạc sĩ
viết nhạc không thích chùa nữa. Ôm cây đàn đau khổ bao nhiêu đêm ngày, có người
ho hen bệnh hoạn chết yểu như Nguyễn Mỹ Ca, có người sống trong nghèo túng đến
khi chết như Canh Thân, Lê Thương… có người chết đau đớn theo tình yêu, cảm hứng
cho những tác phẩm của mình như Đỗ Lễ…mới viết xong được bản nhạc. Tác phẩm của
họ viết xong được các giọng hát cất lên nhưng họ thì không bao giờ nhận đươc
một sự đãi ngộ, bù đắp nào. Nếu có thì cũng chỉ là tượng trưng, rất ít. Ngoại
trừ một số rất nhỏ dám đứng lên đặt vấn đề tác quyền, đa số thì chỉ thấy tác
phẩm tim óc, gan ruột của mình bị lôi ra chùa hết. Cứ nghe tác phẩm của mình là
lại thấy mùi hương ngào ngạt như các văn nhân ngày xưa trước khi đọc thơ thì lại
đốt trầm lên cho thơm ngát chốn thư phòng.
Trịnh Công Sơn trươc
khi chết có dặn dò gia đình phải đòi tác quyền những ca khúc ông viết mà các
giọng hát đem ra hát đầy mùi nhang suốt mấy chục năm nay, và gia đình của ông đã
làm đúng theo lời ông dặn dò. Vì thế, chuyện hát nhạc của ông không còn chùa
miếu nữa. Hát nhạc của ông để kiếm tiền thì phải trả tác quyền. Ca sĩ không thể
nói có quen biết thân tình với tác giả nên … chùa các ca khúc của ông.
Một buổi trình diễn
nhạc ở trong nước mới đây đã làm đúng câu “đầu tiên là tiền đâu” cái đã.
Thế là hết chùa.
Một số ý kiến cho
rằng làm vậy, đòi tiền, là không văn học nghệ thuật chút nào. Nhưng thử hỏi
những ý kiến ấy là nếu họ có tác phẩm thì họ có muốn chùa miễu cho có nét văn
học không nào?
Không thì tại sao lại
chỉ muốn người khác chùa còn mình thì không?
Tại sao lại “của
người bồ tát, của mình lạt buộc”?
Nói đến đây tôi lại
nhớ có một anh ca sĩ nọ. Anh làm mấy cái CD thu giọng của anh. Ở bìa lưng của
đĩa CD, có in danh sách những ca khúc anh hát. Người ta chỉ thấy tên của bài hát
và bên cạnh tên bài hát là tên của anh. Tên của các nhạc sĩ viết các ca khúc ấy
không hề được ghi xuống.
Như vậy, tên nhạc sĩ
sáng tác còn không được ghi xuống thì làm gì có chuyện anh ta đi tìm tác giả để
trả tác quyền.
Nhưng tệ hơn nữa là
anh ca sĩ này lúc ấy có một bạn gái luật sư nên anh ta nhờ cô ta viết một thông
cáo giọng đầy hăm dọa nói rằng bất cứ ai dùng tiếng hát của anh ta, hình ảnh
của anh ta thì phải xin phép anh ta, nếu không anh sẽ nhờ pháp luật can thiệp.
Như vậy, của người khác thì chùa thoải mái, còn của mình thì đừng có mà ai đụng
vào!
Trở lại chuyện ca hát
nói là để gặp gỡ khán thính giả cho đỡ nhớ thì người ta lại nhớ đến chuyện một
ông nhạc sĩ nọ cũng than là nhớ khán giả muốn gặp khán giả để cám ơn. Trước đó,
ông than nghèo kể khổ ốm đau sầu não rất Việt Nam bi thảm Đông Dương nhưng nay
khoẻ lại nên muốn gặp những khán giả ái mộ ông.
Chuyện đó nghe hay
lắm nếu ông đến một chỗ nào đó, hát một buổi cho khán giả vào cửa tự do cho cả
hai bên đỡ nhớ nhau. Chuyện ấy quá dễ. Ở California thiếu gì mấy phòng sinh
hoạt của các tòa báo lấy giá nhẹ nhàng, nhiều người đã làm như thế. Nhưng ông
nhờ người tổ chức ở một hý viện sang trong, giá vé cao gấp năm lần giá vé đi
nghe Tony Bennett ($75/vé hạng nhất) cũng hát trong dịp ấy. Kiếm tiền thì cứ
kiếm nhưng … vừa phải thôi chứ. Nhớ khán thính thì nhẹ tay một chút.