October 21, 2010

October 22, 2010

Ngày 18 tháng 10 năm 2010

Bn ta,

Trong tháng qua, ba người đàn ông ở ba nơi cách nhau khá xa đã làm ba công việc phạm pháp khá giống nhau và cả ba đều bị bắt.

Hai người tìm cách đưa lén những thứ cấm tại phi trường, một người lấy trộm hàng trong siêu thị. Tất cả giống nhau ở một chỗ là đều tìm cách giấu những thứ định đem lén vào cùng một chỗ. Chỗ giấu ấy không ở trong túi áo, không trong túi quần, không trên đầu, không trong tay, không trong chân, không trong lỗ tai. Mà ở chỗ không được kể ra ở trên của đàn ông (vì cả ba đều là đàn ông).

Tháng 9, Frank Corsi bị cảnh sát bắt tại Providence, Rhodes Island về tội trộm ở siêu thị một bịch tôm đông lạnh.

C ũng trong tháng 9, Don Astorga bị cảnh sát phi trường khám thấy có giấu 12 con thằn lằn nhỏ, trong đó có hai con thuộc giống thằn lằn đang có nguy cơ bị tuyệt giống định đưa ra ngoài nước Mỹ.

Đầu tháng 10, Johan Zillinger bị bắt khi đang trên đường ra phi trường Rio de Janeiro về tội mưu đem lén ra khỏi Brazil 5 quả trứng vẹt hiếm quí.

Tất cả đều giấu ở nơi không ai ngờ tới.

Như vậy những món mà ba người định đem lén, giấu vào chỗ ít người nghĩ ra nhất là những thứ còn sống (thằn lằn); chưa có đời sống (trứng vẹt); và đã chết nhưng được ướp lạnh (tôm). Những món mà ba chàng âm mưu mang lén đều cần một thứ nhiệt độ nào đó để khỏi chết (thằn lằn) khỏi hư (trứng vẹt) và khỏi bị ươn thối (tôm).

Những con thằn lằn và mấy quả trứng vẹt thì cần một độ ấm nào đó để sống. Bịch tôm đông lạnh thì cần được giữ lạnh như hàng chữ bên ngoài hộp đã nói rõ: keep refrigerated.

Như vậy thứ cần ấm (thằn lằn và trứng vẹt) cũng giấu vào đó. Cần giữ cho lạnh ở nhiệt độ thấp (tôm đông lạnh) cũng bỏ vào đó.

Như thế là làm sao? Nóng thì nóng thôi chứ. Lạnh thì cũng lạnh thôi. Tại sao nóng cũng đó mà lạnh cũng đó luôn vậy? Nhiệt độ, khi nóng, khi lạnh chứ có phải tiệm hớt tóc hay tử vi đâu mà nam nữ không phân biệt, dùng chung được? Làm thế nào nóng lạnh cùng một chỗ? Nóng thì nóng luôn, lạnh cũng lạnh luôn chứ. Bộ có cái nút điều chỉnh nhiệt độ hay sao? Cái nút đó ở đâu sao... nhiều người sống hơn nửa thế kỷ mà không biết?

Lỡ bỏ tôm vào, quên không bấm nút lạnh, đá tan, tôm rơi rớt lung tung ra làm sao? Hay bỏ thằn lằn, trứng vẹt vào, không biết bấm nút nóng, mấy con thằn lằn, trứng vẹt thành đông lạnh hết sao?

Thực ra thì không cần bấm nút gì hết vì không có nút để bấm, mọi điều chỉnh nhiệt độ đều được làm một cách tự động hết. Từ mấy thế kỷ trước, người Ấn độ đã biết được điều này. Trong cuốn Kama Sutra, cuốn sách viết về nghi thức tình yêu của Ấn độ, điều này đã được đề cập đến. Nơi những người đàn ông này dùng để giấu thằn lằn, trứng vẹt, tôm đông lạnh có một hệ thống điều hòa nhiệt độ mà các bà mụ đã gắn sẵn cho mỗi người đàn ông. Mọi thay đổi nhiệt độ ở bên ngoài đều tạo ra những phản ứng lập tức bởi các máy(?) điều chỉnh nhiệt độ. Khi trời nóng, hay nhiệt độ cơ thể lên cao hơn mức bình thường, thì những quả trứng (vẹt?) được hạ xuống, cách rời khỏi cơ thể để hạ nhiệt. Khi trời lạnh, những quả trứng vẹt (?) được kéo lên, áp sát vào cơ thể để được thân nhiệt truyền qua. Tự động. Không cần phải bấm nút gì hết.

Có lẽ vì biết được những bí quyết này của cơ thể (nhờ đọc Kama Sutra của Vatsyayana) nên cả ba chàng đều bỏ thằn lằn, trứng vẹt và tôm đông lạnh vào đó chăng?

Nhưng cả ba, khi làm thế, đều không nghĩ tới hậu quả việc làm của họ.

Lỡ mấy con thằn lằn quen hơi, quen chỗ, cứ nhất định chọn nơi đó làm quê hương thì chàng tính sao? Không lẽ biến nó thành cái tổ con thằn lằn luôn?

Hay thình lình mấy cái trứng vẹt nở ra vẹt con. Vẹt con cũng cứ nhận chàng (?) làm mẹ, đi đâu cũng bám sát như hiện tượng imprint nơi những con ngỗng, vịt, thiên nga dứt(?) cũng không rời thì sao?

Hay hộp tôm đông lạnh, khi mang về nhà thì ai còn dám đi kiếm hũ sauce mayonaise chấm ăn nữa?

Nhưng tại sao phải làm những việc kỳ lạ như thế, bộ hết chỗ để giấu rồi sao? Hay chỉ vì muốn tạo sự thán phục, ái mộ của cảnh sát, nhân viên quan thuế ở phi trường?

Nếu vậy thì bị bắt cũng đáng đời.

Ðâu phải lúc nào cũng có thể đem chuyện đọc Kama Sutra ra khoe được.


Ngày 19 tháng 10 năm 2010

Bn ta,

Kiss and Tell, trò chơi của khá nhiều người, cho đến nay vẫn chưa có một cách nào để có thể đối phó lại một cách hữu hiệu.

Mà đó là những trường hợp có "kiss" thật. Tuy thế, nếu có "kiss" thật, đem chuyện "kiss" đi "tell" thì cũng không oan uổng, chỉ có hành động "tell" không mấy hào hiệp, mã thượng, anh hùng và văn minh, là đáng trách mà thôi.

Người làm công việc "tell" đó có thể viết nguyên một cuốn sách, hay gọi mấy tờ báo lá cải tới, kể hết mọi chuyện, phơi ra tất cả các thứ thật cũng như bịa đặt ra để kiếm chút tên tuổi hay tiền bạc. Như những người có liên hệ ít nhiều với Diana đã làm chẳng hạn. Người chết, Diana, không thể lên tiếng biện hộ, bào chữa được cho mình. Người làm công việc "tell" tha hồ bịa đặt.

Nhưng khi không có chuyện "kiss", mà vẫn cứ "tell" thì phải làm sao?

Mục Dear Abby trên các báo hôm qua có một độc giả đưa ra được giải pháp hay tuyệt. Kỳ này, Abby không đóng góp thêm được bao nhiêu cho bức thư của người độc giả ở New Jersey.

Ðộc giả này đưa ra góp ý của mình sau khi thấy câu trả lời của Abby quá dở về vụ một thiếu nữ 14 tuổi bị người bạn trai cũ bịa đặt nói là đã ngủ với cô. Abby khuyên nạn nhân nên bắt kẻ phao tin nhảm phải đến trước mặt cô và xin lỗi, cam đoan chuyện đó không hề xẩy ra. Nhưng làm được chuyện đó thì cần gì phải nói nữa.

Tác giả viết bức thư ở New Jersey đề nghị là nếu có ai mách cô (nạn nhân) rằng đương sự X khoe nhắng lên rằng y đã ngủ với cô, thì cô chỉ cần nói rằng " Ðúng... nó có thử, nó có cố gắng làm chuyện đó, nhưng không được vì nó (?) nhỏ quá" -- Yes, he tried, but he was… sooo small.

Nhất định câu nói đó sẽ được đem mách lại cho kẻ phao tin đồn nhảm. Và nghe những nhận định như thế, thì đương sự chỉ có cách đào cái lỗ, chui xuống, lấp lại thì mới hết xấu hổ.

Và trò bịa đặt, mạ lỵ đó phải chấm dứt.

Thế nhưng đó là trường hợp một người đàn ông, một người phái nam bịa đặt chuyện để bôi bẩn một thiếu nữ, một phụ nữ. Khi xẩy ra một trường hợp ngược lại, kẻ phao vu, bịa đặt là một phụ nữ, tuy ít khi xẩy ra nhưng cũng đã xẩy ra, phao vu những điều bịa đặt như vậy thì nạn nhân phải làm gì?

Không thể dùng câu mà người viết lá thư ở New Jersey ra dùng được. Không thể nói là " Ðúng... nó có thử, có cố gắng, nhưng không được vì nó (?) nhỏ quá " được.

Cũng không thể nói là "Ðúng... nó có thử, có cố gắng, nhưng không được vì nó (?) to quá" được.

Nói như vậy, nói là đương sự "nhỏ" hay "to" quá, cách nào cũng là những lời khen ngợi (?) dành cho kẻ bịa đặt, phao vu, mạ lỵ, bởi lẽ "nhỏ" cũng hay mà "to" cũng tốt. Kẻ vu cáo không đáng được dành cho những lời ngợi khen đó.

Thế nên đề nghị của người độc giả viết lá thư cho Dear Abby không thể dùng để đối phó với trường hợp kẻ phao vu, bịa đặt là phụ nữ.

Tưởng tượng những cú điện thoại gọi đến tận nhà của bạn bè nạn nhân nói rằng nạn nhân(?)-- trong trường hợp này là một người đàn ông-- là một người rất tài giỏi về chiến thuật và chiến lược, xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài tan, cốt để hạ uy tín và đạo đức của chàng, rồi nói thêm rằng đương sự mới xứng đáng, mới yêu chàng, mới được chàng yêu lại nhắm tạo những rắc rối cho những liên hệ mới của chàng... thì phải giải quyết như thế nào?

Khó nhưng không phải là không có cách. Bạn tôi ở đây, dường như cũng có lần bị một chuyện tương tự. Chàng nói với bạn(?) chàng rằng lần tới, điện thoại gọi đến, cho dù là đêm khuya canh vắng hay sớm mai đầu ngày, cứ hỏi lại phía bên kia rằng "tốt" thế sao lại bỏ, uổng quá đi thôi!

Chắc phải hết.


Ngày 20 tháng 10 năm 2010

Bn ta,

Nghĩ lại ai cũng phải nghĩ các cụ ngày xưa thật là giỏi: mất con gà, các cụ chẳng cần trình báo cụ lý hay ông xã trưởng làm gì cho mất thì giờ, mà cũng chẳng phải điều tra cho lâu lắc mất công, các cụ cứ đứng ở góc sân sau nhà, bắc cái ghế đứng lên cho tiếng bay xa, vọng sang mấy nhà hàng xóm bâng quơ vài ba câu là có người kín đáo trả lại con gà ngay.

Thực ra, nói là bâng quơ chứ đó nguyên là một bài chửi có vần, có điệu, lúc lên cao, lúc xuống thấp, đưa ra tất cả những điều cầu chúc bất lợi về phía "công tằng tổ khảo, thúc bá, đệ huynh... " của người bị tình nghi bắt con gà.

Mấy chục năm trước, một linh mục người Pháp dậy ở Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn đã ghi lại, chú thích cặn kẽ áng văn chương dân gian tuyệt tác này để giảng cho sinh viên chứng chỉ Văn Minh Việt Nam.

Toàn thể bài chửi không hề nêu đích danh ai là người bắt trộm con gà, vậy mà một lúc sau, con gà được thả ra cho trở về với khổ chủ.

Lý do là vì sự động lòng. Người lấy trộm con gà động lòng, thấy tất cả những chi tiết trong bài chửi đều nhắm vào mình, không vào bất cứ một ai khác, vì trong buổi chiều hôm ấy, chỉ có đương sự làm công việc bắt trộm con gà của hàng xóm.

Nhưng cũng có thể trong ngày, có hai ba con gà khác bị mất trộm, nhưng người bắt trộm con gà thấy những câu chửi, những lời chúc dữ đều như nhắm vào mình, nên động lòng, và phải trả con gà, gián tiếp nhận là mình đã sai quấy.

Ðiều đáng nói là người bắt con gà của hàng xóm không nhẩy đong đỏng lên, chạy sang nhà hàng xóm gây sự đòi nói phải quấy, hạch hỏi tại sao ông bà... nói tôi bắt gà của ông bà? Người bắt trộm con gà nghe chửi xong thì nhận ra mình là người làm bậy nên âm thầm trả lại con gà. Có thể từ đó về sau, đương sự không âm mưu bắt con gà của người hàng xóm nữa. Như vậy, bài chửi mất gà ngoài việc tìm lại được con gà, cũng đã giúp cải thiện được con người tham lam muốn có con gà hàng xóm về vui vẻ với nắm lá chanh.

Ở Mỹ, người ta không làm thế. Thí dụ không bao giờ xẩy ra trường hợp một người đứng ở góc đường phân phát những tấm bươm bướm kể tội chiếc SUV (sport utility vehicule) của ông mà ông không nêu tên, chỉ nói là nó dễ lật, không bám đường, máy yếu, hộp số không ăn số...

Tờ Consumer Reports khi thấy một sản phẩm bán ngoài thị trường có những khuyết điểm, thì nêu đích danh hãng sản xuất và sản phẩm đó ra trên báo để cảnh giác người tiêu thụ.

Tờ báo này không nhận quảng cáo để giữ tư thế độc lập, bênh vực cho người tiêu thụ, khỏi phải nể vì bất cứ một thứ thế lực, công ty nào. Mấy năm trước, khi viết về những cái dở và nguy hiểm của các loại xe SUV, tờ báo này đã nêu đích danh những chiếc Tracker của Suzuki để nói mà không cần bâng quơ, đứng ở góc phố phát bươm bướm chê một loại SUV không nêu rõ tên.

Vì lẽ nếu không nói rõ, thì người ta có thể lầm tưởng đó là những chiếc Trooper của Isuzu, hay Montero của Mitsubitshi, hay Explorer của Ford... Các kiểu vừa kể không ít thì nhiều đều có những điểm khiếm khuyết đó.

Tờ Consumer Reports viết bài nói rõ đó là sản phẩm của Suzuki, và nhờ đó, công ty này đã sửa chữa được những sai sót trong sản phẩm của họ.

Tuy thế tờ Consumer Report, tờ báo bênh vực người tiêu thụ chưa bao giờ viết về những giọng hát mà người tiêu thụ mất khá nhiều tiền trong khi không được đền bù xứng đáng, bởi lẽ các ca sĩ Mỹ đều hát đến nơi đến chốn, lương tâm chức nghiệp rất cao. Họ hát đến nỗi phát bệnh hoạn như Mariah Carey. Hát đến nỗi mất tiếng như Julie Andrews. Vì nghề nghiệp mà tử nạn như Ricky Nelson, Jim Reeves, Patsy Cline, Aaliyah...

Nhưng nếu tờ báo này viết một bài than phiền về một giọng hát đang càng lúc càng dở đi, hát sai, không thuộc lời, tự động sửa lời ca của tác giả, hát tắc trách, không chịu tập dượt với ban nhạc để bắt sai nhịp, quay sang đổ lỗi cho ban nhạcthì cũng không ai, không Britney Spears, cũng không Madonna, không Glora Estefan, không LeeAnn Rimes... thấy cần phải nhẩy nhổm lên gây sự với tờ Consumer Reports.

Bởi vì chẳng có ai trong số những ca sĩ này động lòng cả.

Nhẩy dựng lên là động lòng, là nhận rằng mình càng lúc càng dở đi, hát sai, không thuộc lời, tự động sửa lời ca của tác giả, hát tắc trách, không chịu tập dượt với ban nhạc để bắt sai nhịp, quay sang đổ lỗi cho ban nhạc... hay sao?

Chữ "động lòng" trong tiếng Việt hay tuyệt. Không cách gì diễn sang tiếng Anh cho đầy đủ ý nghĩa được. Ðộng lòng, là một cách nhìn nhận những câu bâng quơ trong bài báo của Consumer Reports vậy.


Ngày 21 tháng 10 năm 2010

Bn ta,

Hình như chỉ từ khi ra khỏi Việt Nam, báo chí Việt ngữ mới có trò in kèm theo hình của chủ nhân các cơ sở, các dịch vụ trong những quảng cáo đăng trên báo.

Việc in kèm những bức hình này thực ra cũng có cái lý của nó. Người đăng quảng cáo kèm theo bức hình là để muốn được nhận diện khi thân chủ đến với cơ sở của mình. Ông hay bà muốn, sau khi bỏ tiền đăng quảng cáo, khách sẽ đến với mình chứ không tới với các đồng nghiệp khác, nhất là trong các dịch vụ được trả commission, hoa hồng, thay vì được trả lương cố định.

Trong suốt bao nhiêu năm ở Việt Nam, có lẽ chỉ có ông Khánh Sơn, thực ra, luôn luôn là Maitre Khánh Sơn, hay Prof Khánh Sơn, chuyên sống về nghề tử vi, bói toán, mới có hình đăng trên báo. Trong hình, bao giờ ông cũng có vẻ chững chạc, đạo mạo và thông thái. Người ta tìm đến với ông chắc cũng phần nào nhờ nét thông thái trong hình. Vậy chuyện ông in hình trên báo là hợp lý.

Chủ nhân một tiệm trang điểm cô dâu, bán hay cho thuê áo cưới cũng nên đăng kèm vài ba bức hình. Những bức hình đăng ở các quảng cáo đã làm nhiều người muốn chạy lại nhờ cô trang điểm.

Chủ nhân của các cơ sở làm đẹp này nên dùng những bức ảnh đắc ý nhất. Những bức ảnh đó là những quảng cáo rất hữu hiệu cho dịch vụ làm đẹp của tiệm.

Các thẩm mỹ viện cũng thế, nhưng nên tìm những bức ảnh cũ thì tốt hơn. Mời du khách đến thăm xứ sở của mình thì nên dùng những hình ảnh thanh bình xưa cũ. Dùng những bức Việt Nam bi thảm Ðông Dương, bản dịch của Ðường Bá Bổn thì rất không nên. Các chủ nhân nên dùng những bức ảnh, như Bernard Shaw vẫn nói về bức tượng của ông: "The damn thing gets younger and younger everyday." Ông than thở ông thì già đi mà nó thì cứ mỗi ngày mỗi trẻ ra.

Nhưng các dịch vụ khác thì không cần phải chọn những bức ảnh đẹp nhất để đăng báo. Thí dụ như dịch vụ địa ốc chẳng hạn. Cứ kiếm những bức xấu đẹp tùy người đối diện là được. Chúng tôi đi mua nhà chứ không đi tuyển lựa hoa hậu Mỹ quốc. Nhà ở khu tốt, giá phải chăng, điều kiện dễ dàng là chúng tôi mua. Người bán xấu hay đẹp, có duyên hay vô duyên, kèm bên cạnh tên những chữ viết tắt không thấy trong bất cứ một cuốn niên giám đại học nào, không là yếu tố quyết định để mua nhà.

Trong dịch vụ mua bán xe cũng thế. Không lẽ bán xong cái xe, lại muốn đi theo chủ của chiếc Jaguar về luôn sao. Do đó, không cần hình đẹp trong những quảng cáo này.

Trong những dịch vụ khác, nên kiếm những bức hình càng xấu càng tốt. Những bức hình xấu và dữ tợn có thể lại có tác dụng tốt cho dịch vụ được quảng cáo trên báo.

Thí dụ văn phòng luật sư thì phải dùng những bức hình hung tợn, da mặt như cái lốp xe hơi, nhan sắc của những gangsters, sát nhân kiểu John Cochran, luật sư cãi cho OJ Simpson trước đây và cho Sean "Puffy" Combs . Hay nếu không thì phải mặt mũi kiểu chó đẻ như Benjamin Brafman hay Lee Bailey, lúc nào cũng như muốn ăn tươi nuốt sống phía bên kia.

Trong những trường hợp như thế, cứ tìm bức hình xấu nhất, dữ tợn nhất, khủng khiếp nhất, trước khi căng da mặt, sửa mũi, bơm môi thì lại càng tốt.

Những bức hình xấu như thế lại làm cho thân chủ hay những người dự tính nhờ giúp đỡ tại tòa yên tâm hơn. Trông càng dễ sợ càng ăn khách. Chứ luật sư mà trông hiền trông không bảo đảm chút nào.


Ngày 22 tháng 10 năm 2010

Bn ta,

Tôi đã cố, nhưng không thể nào tìm được xuất xứ đích xác định nghĩa về hạnh phúc mà chúng ta nghe đã rất nhiều lần từ mấy chục năm qua: Ở nhà Tây, đi xe Hoa kỳ, ăn cơm Tầu, lấy vợ Nhật.

Nó có từ bao giờ, ai là người xướng nó lên lần đầu tiên, ở đâu, trong dịp nào vân vân. Tôi xin chịu.

Nhưng rõ ràng là những định nghĩa này phải có sau ông Tú Vị Xuyên, vì nếu có từ thời ông còn sinh tiền, trước năm 1906, chắc chắn chúng ta phải đọc được những thứ ấy trong thơ của ông. Ông là người rất mới trong ngôn ngữ: nhẫn ma dê, rượu sâm banh, sữa bò... thơ ông đầy những thứ như thế. Nhưng ông không đề cập đến những hạnh phúc ở nhà Tây, đi xe Hoa kỳ, ăn cơm Tầu, lấy vợ Nhật. Ông có ăn cao lâu (quịt) và có ước muốn lấy vợ đầm (...Cụ sứ có cô con gái đẹp / Lăm le xui bố cưới làm chồng...) còn những thú vui kia thì không thấy ông nhắc.

Vậy thì nó phải xuất hiện khá lâu sau đó, khi những chiếc xe Hoa kỳ bắt đầu chạy trên đường phố Việt Nam. Thời những năm 1920, theo Vương Hồng Sển, chưa có xe Hoa kỳ ở Ðông Dương (Sài Gòn Tạp Pín Lù, Văn Nghệ xuất bản năm 1994, trang 165). Vậy thì phải đến những năm 30 hay 40, mới có xe Hoa kỳ, chạy êm, đẹp và hay hơn những Hotchkiss, Bugatti, Alfa Roméo... mà cụ Vương kể trong sách của cụ.

Từ đó đến nay, những thứ đem lại cho chúng ta hạnh phúc đã thay đổi. Xe Hoa kỳ không còn tốt nhất nữa. Nhà Tây thua nhà Mỹ xa. Cơm Tầu nhiều dầu, mỡ, không tốt cho tim mạch. Phụ nữ Nhật không còn chiều chồng như trước nữa, họ cũng nói nhiều, nói dai, nói ác, hành hạ những người đàn ông Nhật đến điều, cho các chàng ăn hủ tiếu dai, canh rau đay, thịt băm nghiền như điên, đến nỗi các salarymen tan sở phải bò đi hát karaoke đến khuya mới lén về nhà, mắt không còn hừng hực lửa như các võ sĩ ngày xưa nữa...

Do đó, mấy thứ đem lại hạnh phúc cho thế hệ ông cụ tôi hay trước đó một chục năm, nay không còn tạo được hạnh phúc nữa. Bây giờ, hạnh phúc có thể chỉ còn ba thứ, thay vì bốn, đó là ở nhà Mỹ, lái xe Nhật, và ăn cơm mẹ nấu.

Thỉnh thoảng nhớ lại những thứ một thời đem lại hạnh phúc cho các cụ, tôi cứ thắc mắc không biết các dân tộc khác có được những suy nghĩ tỉ mẩn như các cụ chúng ta không?

Tôi cho là không. Có thể ít có dân tộc nào vọng ngoại nhiều như chúng ta, và hạnh phúc với những thứ họ có, không cần đi tìm kiếm đâu xa chăng?

Nhưng sáng nay một người bạn e-mail cho tôi mấy định nghĩa về địa ngục thiên đường khiến tôi nghĩ cũng có người có những suy nghĩ khá giống chúng ta. Vậy thì nhân loại khi mưu tìm hạnh phúc cũng giống nhau đấy chứ.

Và đây là thiên đường, địa ngục như định nghĩa của cái e-mail ấy:

Heaven is when you have an American salary, a British home, Chinese food, a German car and a Latin lover.

Hell is when you have an American car, a British lover, a Chinese house, German food and a Latin salary.

Lương Mỹ thì vui hơn lương Mễ, lương El Salvador, Honduras, Nicaragua, Colombia... ở Mỹ châu La Tinh nhiều.

Nhà Ăng Lê thì tốt hơn nhà Trung Hoa. Trước tiên là cái cầu tiêu. Ngồi cái fosse Anglaise oai và thoải mái hơn cái bô (ở góc nhà, dùng chung với một chục người khác, dùng xong đem đi đổ xuống sông) trong những căn nhà ở Thượng Hải như tờ Washington Post vừa cho biết rất nhiều.

Cơm Tầu vẫn được coi là hơn các thứ cơm khác. Ðồ ăn của Ðức thì ngoài món hamburger (thịt nghiền kiểu Hamburg), không ai nhớ nổi người Ðức... ăn gì nữa.

Người tình La Tinh (Ý, Tây Ban Nha, Nam Mỹ) thì nhất định phải hay hơn người tình Ăng Lê như trong một hài kịch của Monty Python mấy năm trước: No Sex, We Are British.

Còn xe thì xe Ðức đang dẫn đầu trước tất cả mọi loại xe Mỹ. Ði Chevrolet thì thà đi cái Mercedes, cái BMW, cái Audi... còn hơn.

Như vậy là nhà cửa, xe cộ, đồ ăn thức uống tất cả đều được nói tới trong các định nghĩa tôi mới được nghe về hạnh phúc.

Nhưng không có câu nào nói về vợ là làm sao?

Không hiểu được. Hay không thế mới là hạnh phúc, thiên đường và... địa ngục?


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


QUỲNH ANH

Kính thưa quí vị, đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Lãm Thúy, Quỳnh Anh và Bùi Bảo Trúc xin kính chào quí vị.

Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến với quí vị mỗi tuần sẽ giúp ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Nếu có thắc mắc xin quí vị liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại cho chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày. Mời thầy Trúc mở đầu bài học hôm nay.

BBT

Cô QA vừa nói đến những điều kỳ quái trong tiếng Anh vậy thì tôi sẽ nói về những điều kỳ quái đó vậy.

LÃM THÚY

Bạn của Thúy có lần nói rằng tiếng Anh là cái tiếng kỳ cục. TÔI là AI (I). Mà AI (I) lại là TÔI. Đến khi học qua những động từ, những thì của các động từ, rồi tới cách đọc của nhiều chữ trong tiếng Anh thì Thúy lại càng thấy nó kỳ cục thật.

QA

QA cũng thấy như thế. Viết thì có viết. Đọc lên thì không phát âm những chữ ấy. QA thấy mệt nhất là những trường hợp như thế.

BBT

Cô cho một vài thí dụ được không?

QA

Đó là nhũng chữ bắt đầu bằng hai chữ K và N.

KNACK là tài năng. KNAPSACK là cái túi đeo lưng. KNAVE là người phản phúc. KNEAD là nặn bột làm bánh. KNEE là cái đầu gối. KNEEL là quì gối. KNICKERS là cái quần soọc . KNIFE là con dao. KNOCK là gõ. KNOCK OUT là đo ván. KNOB là cái nắm đấm cửa. KNIT là đan len. KNIGHT là hiệp sĩ. KNOW là biết. KNOWLEDGE là kiến thức. KNOLL là ngọn đồi. KNOT là cái nút. KNUCKLE là cái lóng tay.

Đó là những chữ mà con gái QA đưa cho QA bắt mẹ học cho thuộc để khỏi nói sai, con cái lại phải sửa lưng.

LÃM THÚY

Thúy nghe cái danh sách ấy mà phát mệt. Thế thì hễ thấy có chữ K đi với chữ N thì cứ bỏ luôn chữ K đi, chỉ đọc chữ N thôi có phải tiện không?

BBT

Không được, vì có một ngoại lệ. KNAIDEL là một thứ bánh của người Do Thái. Chữ này thì lại phải đọc cả chữ K ở đầu.

Bây giờ hỏi cô Lãm Thúy một trường hợp khác cũng có viết mà không đọc nhé. Có khi nào viết thì có chữ S rành rành mà đọc thì nhất định là không không nào?

LÃM THÚY

Có. Thúy nhớ. ISLAND là đảo không đọc chữ S phải không? Chữ VISCOUNT là tử tước cũng không đọc chữ S.

QA

Danh từ AISLE là cái lối đi giữa hai hàng ghế trong nhà thờ, hay giữa hai hàng tủ tại siêu thị cũng không đọc chữ S. Danh từ ISLE là hòn đảo nhỏ. Nhưng sao QA cũng nghe thấy có người đọc là AI-X-LAND?

BBT

Chắc đó là ICELAND, tên một quốc gia. Âm đầu là ICE nghĩa là nước đá. ICELAND là Băng Đảo, 1 quốc gia nằm sát Bắc cực ở Âu châu.

Còn ISLAND là đảo thì không đọc chữ S.

LÃM THÚY

Thúy còn thấy hai chữ này có viết mà nhất định không đọc là hai chữ GH.

Trong tên của ông nhà văn SOMERSET MAUGHAM chẳng hạn. Viết thì có GH tại sao lại không đọc.

QA

QA cũng thấy tên một nữ ca sĩ nhạc Jazz Mỹ tên là SARAH VAUGHAN cũng vậy. Hay ông tỉ phú HOWARD HUGHES. Bực ghê vậy đó. QA cứ thấy gì đọc nấy là lại bị các con dậy bảo ghê quá. Hồi chúng nó còn bé thì QA dậy chúng nó nói tiếng Việt. Bây giờ ba đứa , đứa nào cũng dậy mẹ được .

BBT

Hai chữ GH mà QA nhắc còn thấy ở nhiều danh từ động từ khác nữa chứ không phải là chỉ hai ba cái tên người như vậy đâu.

PLOUGH là cầy. PLOUGHING là việc cầy bừa. WEIGH là cân. WEIGHING cũng không đọc hai chữ GH.

NOUGHT là zero, là không thì đọc chữ T ở cuối . NAUGHTY là hư đốn cũng vậy. HIGH, HIGHER cũng thế.

LÃM THÚY

Còn chữ B nữa. Viết thì có, mà đọc thì không.

QA chắc biết chữ này. Cái lược là COMB. Nhưng không đọc chữ B. COMBING.

Động từ TO BOMB là thả bom. BOMBING là oanh tạc. Không đọc âm B. BOMBER là oanh tạc cơ, không đọc chữ B. PLUMBER là thợ ống nước. PLUMBING là việc lắp ống nước, làm hệ thống ống nước.

Nói những chuyện này thì phải nhiều chương trình may ra mới hết được.

QA

Hay thầy đổi đề tài đi. QA muốn nhờ anh giải thích thêm về hai thì hiện tại và quá khứ. Vì QA biết là có những trường hợp KHÔNG được dùng thì quá khứ phải không thưa anh?

BBT

Đúng. Có những trường hợp KHÔNG được dùng PAST TENSE. Phải dùng PRESENT TENSE. Lý do là thì hiện tại, PRESENT TENSE được dùng để nói lên một điều bao giờ cũng đúng, là một chân lý bất biến.

Thí dụ...

QA

THE SUN RISES IN THE EAST AND SETS IN THE WEST.

BBT

Cám ơn cô QA. Đó là một chân lý. Bao nhiêu triệu năm trước cũng như triệu triệu năm sau, mặt trời bao giờ cũng mọc ở phương đông và bao giờ cũng lặn ở phương Tây. Cô Lãm Thúy còn thấy một chuyện gì luôn luôn đúng, bao giờ cũng đúng nữa không?

LÃM THÚY

À đây rồi: TWO AND TWO MAKE FOUR. Hai với hai là bốn. Không bao giờ thay đổi. A MOTHER IS ALWAYS A WOMAN.

QA

Không đâu Thúy. Mới đây tin nói là có người đàn ông mang thai và sinh con gái rồi mà. Vậy thì phải thêm đoạn sau: BUT SOMETIMES A MAN IS A MOTHER. QA giỡn đó. Người ấy nguyên là một phụ nữ đổi giống để thành đàn ông, nhưng ông vẫn còn buồng trứng nên làm thụ thai nhân tạo và sinh con hồi tháng 7 năm 2008.

BBT

Thì hiện tại, PRESENT TENSE cũng được dùng để nói về một thói quen, một việc làm được lập đi lập lại nhiều lần. Những việc đó không nhất thiết phải đang xẩy ra vào lúc chúng ta nói.

Thí dụ I GO TO BED AT 11 EVERY WEEK NIGHT. Đây là một thói quen.

I DO THE WASHING FOR THE FAMILY AT THE LAUNDROMAT. Đây là một việc được lập đi lập lại nhiều lần.

I USE MY BIKE TO GET TO WORK. Vào lúc tôi nói thì tôi không đang đi xe đạp nhưng sáng nào tôi cũng làm việc đó.

LÃM THÚY TAKES ABOUT TWO HOURS TO GET READY FOR WORK.

QUYNH ANH SPEAKS VIETNAMESE WITH SOUTHERN ACCENT.

WHEREVER THE PARENTS WANT THE DAUGHTER TO SIT, SHE WILL OBEY THEM AND WILL SIT THERE...

LÃM THÚY

Câu anh vừa nói không còn đúng nữa. Ngày xưa thì có chứ bây giờ thì không còn như vậy nữa đâu. Ngày xưa mới cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy chứ bây giờ là không còn chuyện đó rồi.

Bây giờ thì WHEREVER THE CHILDREN WANT THEIR PARENTS TO SIT, THE PARENTS WILL SIT THERE.

BBT

Cô định nói là bây giờ con đặt đâu cha mẹ ngồi đó chứ gì? Thì hiện tại, PRESENT TENSE còn được dùng để nói tới một việc trong tương lai, chưa xẩy ra, nhưng chắc chắn sẽ xẩy ra.

Đó là những chuyện người ta đã tính, đã hoạch định từ trước và nhất đinh sẽ phải diễn ra.

Cô QA nghĩ có chuyện nào như vậy không?

QA

Có. Nhiều chứ anh. Thí dụ đầu tháng 11 tới đây thì dù có mưa tuyết, bão bùng, thì người Mỹ cũng vẫn sẽ làm chuyện đó. Thúy biết chuyện gì không?

LÃM THÚY

Chuyện bầu cử chứ gì?

QA

Đúng. Việc đi tới phòng phiếu thì chưa. Nhưng chắc chắn vào tháng 11 thì nhất định các cử tri sẽ tới phòng phiếu. Vậy thì phải nói: THE AMERICAN VOTERS GO TO THE POLLS IN NOVEMBER.

BBT

Cô Lãm Thúy cho một thí dụ tương tự về cách dùng thì hiện tại để chỉ một việc nhất định sẽ xẩy ra trong tương lai.

LÃM THÚY

THE PLANE LANDS EXACTLY AT 10 O’CLOCK TOMORROW MORNING.

QA

Còn thì PAST , tức là SIMPLE PAST hay PRETERITE thì sao thưa anh?

BBT

Cô QA gọi thì quá khứ là SIMPLE PAST để phân biệt với PAST CONTINUOUS và PAST PERFECT. Hai thì này chúng ta sẽ nói sau. SIMPLE PAST là thì quá khứ, nói về một việc đã hoàn tất, đã xong, không còn dính líu gì với hiện tại, PRESENT TENSE nữa . Với các động từ qui tắc, chúng ta chỉ việc thêm ED hay D vào cuối. Với các động từ bất qui tắc IRREGULAR VERBS thì chúng ta phải học thuộc lòng vậy mà thôi. Chúng ta dùng PAST TENSE cho những việc xẩy ra trong quá khứ mà chúng ta biết rõ thời gian.

Thí dụ WE LEFT SAIGON IN 1975. Thời gian việc ấy xẩy ra là năm 1975.

Cũng có khi không biết rõ ngày giờ nhưng công việc đó chắc chắn đã xẩy ra, đã hoàn tất.

HỒ XUÂN HƯƠNG LIVED IN THE OUTSKIRT OF HANOI. Không biết rõ năm nào, nhưng bà có sống ở ngoại thành Hà Nội. Bây giờ thì không còn nữa.

QA

QA nói I WAS A CITIZEN OF VIETBNAM. MY NATIONALITY WAS VIETNAMESE có được không thưa anh?

BBT

Được chứ. Truớc đây cô mang quốc tịch Việt Nam. Nay cô là công dân Mỹ thì nói như vậy là đúng.

Nhưng hai cô thấy những câu này có gì khác nhau nào:

HE HAD 2 CHILDREN.

HE HAS 2 CHILDREN.

LÃM THÚY

Câu số 1 nghĩa là ông ấy có 2 con. Bây giờ ông có 3 hay 4. Cũng có thể cả hai hay tất cả ba người đều không còn nữa.

Câu số 2 nghĩa là ông ấy có 2 con. Bây giờ vẫn có 2 con. Chưa có gì thay đổi trong số con của ông.

BBT

Đúng. Vậy thì hai cô còn thắc mắc gì nữa không?

QA

Lúc đầu chương trình, anh nói tới thì PAST PERFECT. Dùng nó như thế nào thưa anh?

BBT

PAST PERFECT chỉ được dùng khi có hai chuyện xẩy ra trong quá khứ. Một chuyện xẩy ra trước. Một chuyện xẩy ra sau thì mới dùng được PAST PERFECT.

Có một chuyện, một việc thôi thì chỉ dùng thì PAST TENSE là đủ. Thí dụ nói hôm qua tôi đến phi trường. Câu này chỉ có một hành động, một chuyện, một việc. Thế thì cứ dùng PAST TENSE. Mời cô Lãm Thúy.

LÃM THÚY

YESTERDAY I WENT TO THE AIRPORT.

BBT

Nhưng khi có một việc khác nữa thì việc xẩy ra trước phải dùng PAST PERFECT. Như vậy PAST PERFECT là thì để tả một việc xẩy ra trước một việc khác cũng trong quá khứ.

Cô Thúy cho thêm một việc thứ hai trong câu cô vừa nói, dùng PAST PERFECT coi.

LÃM THÚY

YESTERDAY I WENT TO THE AIRPORT BUT THE PLANE HAD LEFT.

BBT

QA cho một thí dụ bằng tiếng Việt để xem đã hiểu rõ chưa đã.

QA

Khi QA về nhà tối hôm qua thì mấy đứa con đã đi ngủ hết rồi.

Để QA nói bằng tiếng Anh nhá: LAST NIGHT WHEN I GOT HOME, THE CHILDREN HAD GONE TO BED.

GOT HOME là PAST TENSE. HAD GONE TO BED là PAST PERFECT.

BBT

Cô LÃM THÚY còn nhớ cách hợp thành của PAST PERFECT không?

LÃM THÚY

PAST PERFECT được tạo thành với HAD và PAST PARTICIPLE của động từ chính.

HAD GONE thì HAD là PAST TENSE của động từ TO HAVE. GONE là PAST PARTICIPLE của động từ TO GO.

Khi học các động từ bất qui tắc thì PAST PARTICIPLE là cột thứ BA phải không anh?

Thí dụ TO GO/ WENT/ GONE; TO TAKE/ TOOK/ TAKEN; TO KNOW/ KNEW / KNOWN; TO GIVE/ GAVE / GIVEN.

QA

Còn động từ qui tắc thì cứ thêm ED vào cuối là xong. Tại sao bầy ra mấy cái động từ bất qui tắc này làm chi không biết nữa. Tại sao không cứ thêm ED vào cuối như TO JUMP/ JUMPED/ JUMPED ; TO WALK/ WALKED/ WALKED ... có đỡ cho những người học tiếng Anh như QA không.

BBT

Cô QA cho một thí dụ về PAST PERFECT coi.

QA

WHEN HIS BOAT ARRIVED

THE HAIRPIN HAD BEEN LOST, THE FLOWER VASE HAD BEEN BROKEN

BBT

QA đọc Kiều đó à? Thuyền tình vừa ghé đến nơi/ Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ.

Thôi, như vậy hai cô đã hiểu rất rõ về PAST PERFECT, PRESENT TENSE và PAST TENSE. Có còn thắc mắc gì nữa không?

LÃM THÚY

Thúy muốn nhờ anh giảng cho biết khi nào dùng ON và khi nào dùng IN khi nói về NGÀY?

ON A DAY hay IN A DAY?

BBT

ON là VÀO. IN là TRONG. Khi nói tôi sẽ đi Washington VÀO ngày thứ Năm tuần tới thì dùng ON. I will go to Washington ON Thursday next week.

Nhưng khi nói tôi có thể đọc hết bộ Tam Quốc Chí trong 1 ngày thì nói I CAN FISNISHED THE TALES OF THREE KINGDOMS IN ONE DAY.

QA

Còn ON THE STREET và IN THE STREET có khác nhau gì không thưa anh?

BBT

Có khác nhiều lắm. HE LIVES ON BROOKHURST STREET nghĩa là anh ấy ở đường Brookhurst. HE LIVES IN THE STREET thì là anh ấy sống ngoài đường.

QA

Cám ơn thầy Trúc. Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến đây tạm chấm dứt. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin cảm ơn sự theo dõi của quí vị và xin hẹn gặp lại quí khán giả trong chương trình tuần tới.