November 25, 2009

November 27, 2009

Ngày 23 tháng 11 năm 2009

Bạn ta,

Cuốn sách phát hành tại Anh quốc của David Weeks và Jamie James, Secrets of the Superyoung, bí mật của những người trẻ lâu, có thể sẽ khiến các ma đam chủ thẩm mỹ viện phải đổi nghề, hay nếu tiếp tục, thì các thẩm mỹ viện sẽ chỉ còn thứ khách hàng cơm đường cháo chợ, hằng đêm không biết làm gì hơn là nằm ngó trân trân lên chiếc trần nhà đầy mạng nhện.

Bản tin sáng nay của Reuters gửi đi từ Luân Đôn về quyển sách này cho biết là những phương pháp căng kéo bơm hút, những loại kem dưỡng da, xóa vết nhăn sẽ không còn được dùng nữa trong nỗ lực tuyệt vọng để níu kéo thêm chút thanh tân khi "Tuổi hoa niên úa dần mỗi năm, ngày xuân len lén bỏ đi, những đóa hoa ẻo lả chết vô ích " (Youth wanes year after year; the spring days are fugitive; the frail flowers die for nothing / bài 46, The Gardener của Tagore)

Tất cả các kỹ thuật cũ vừa tốn kém vừa mang lại không bao nhiêu kết quả, ấy là chưa nói đến việc làm cho bạn bè thân quen không cách nào nhận ra với những cái mũi mới bằng plastic... nam nữ dùng chung, mắt hai mí, cằm chẻ một kiểu tạo sinh rập khuôn của những bàn tay giải phẫu thiếu sáng tạo.

Theo David Weeks, một nhà tâm lý học, và Jamie James, một khoa học gia, thì cách hay nhất để trẻ thêm được bẩy tuổi, quăng đi những đường rãnh quái ác mỗi ngày mỗi rõ thêm, sâu thêm, những cái chân quạ nhất định không chịu... bước ra khỏi khóe mắt, những buổi sáng buồn khi soi gương thấy những sợi tóc mai đã đổi mầu là chịu khó mỗi ngày yêu bố cháu một cái bằng tất cả sự hăng hái có được (vigourous regular sex).

Theo hai tác giả của cuốn sách, thì sinh hoạt đó giúp làm giảm những chất mỡ, đồng thời làm cho não tiết ra endomorphins, một chất giúp giảm đau và đánh tan những lo âu phiền não. Hai ông đã đi đến kết luận như vừa kể sau khi nghiên cứu trường hợp của 95 người có bề ngoài trẻ hơn tuổi thật trong căn cước rất nhiều. Tất cả đều cho biết sex là yếu tố lớn nhất đem lại nét trẻ trung của họ.

Bởi thế nên không cần phải kem dưỡng da như Melanie Griffith mới có thể thách đố thời gian mà chúng ta thỉnh thoảng thấy trong những quảng cáo trên màn ảnh truyền hình. Cứ cơm nhà, quà... cũng ở nhà là trẻ ra tới bẩy tuổi ngay tức thì.

Cuốn sách của David Weeks và Jamie James còn đưa tới những chuyện khác nữa. Thí dụ tối tối, mẹ cháu có thể cầm viên aspirine đứng trước mặt bố cháu nuốt cái ực, rồi nói lớn: "Cho nhức đầu đi chơi chỗ khác nhá..." Hay cũng có khi vuốt mái tóc điểm sương của bố cháu rồi âu yếm:"Bố già quá rồi, mà lại không là... xếp của Mafia được... thôi để em làm cho bố trẻ đi bẩy tuổi nghe..."

Thế là lại làm ma đam chủ thẩm mỹ viện cho cả bố cháu lẫn mẹ cháu cho cả hai thành... đôi trẻ trở lại. Nhưng cứ giúp bố cháu trẻ lại như thế thì cũng mệt quá. Thế nào chẳng xẩy ra chuyện những cuốn sách quái ác đó bị đem đốt ngay từ khi được chở từ Anh sang nước Mỹ, trước khi chúng được đưa tới các tiệm sách để giúp những người đàn ông khốn khổ ở nước Mỹ tiếp tục già cho đỡ... mệt.

Ai cần bỏ đi bẩy năm trên mặt để mất đi bẩy năm ở những chỗ khác?


Ngày 24 tháng 11 năm 2009

Bạn ta,

Một người bạn thấy trí nhớ của tôi bắt đầu lung tung, vừa gửi cho tôi một cái organizer để yểm trợ cho bộ nhớ cũ với 8 megabytes giúp ghi xuống những chuyện không thể quên được trong đời sống.

Như bạn biết, sau cái tuổi năm mươi quái ác, trí nhớ bắt đầu bỏ chúng ta mỗi ngày. Có khi đang nói giữa câu thì quên hẳn định nói gì, không sao nhớ ra được. Thình lình ai hỏi hôm qua làm gì, mặc cái áo nào, cái ca vát mầu gì, tối ăn gì, với ai, là chịu thua. Cái hẹn đến rồi đi, mãi mấy ngày sau mới nhớ. Một khuôn mặt rất quen mà cái tên thì biến mất. Hai tháng trước, một người bạn cũ của thời đi học gặp tôi ở một quán ăn. Vẫn cái giọng nói đó, vẫn tiếng cười đó, người bạn còn giúp trí nhớ bằng hai ba chi tiết khác, rốt cuộc đành mang tiếng là "thiên hạ đệ nhất bạc tình lang" vì không cách gì nhớ ra nổi. Mãi đến khi có tấm danh thiếp, mới... mừng mừng tủi tủi ôm nhau cứ như cảnh quán bên đường trong bài thơ của Bình Nguyên Lộc.

Cái organizer cầm gọn trong bàn tay ngoài khả năng lưu giữ 12 ngàn cái địa chỉ, một số hình ảnh ( để đề phòng trường hợp một người bạn cũ khác trắc nghiệm trí nhớ), còn giữ được trong bộ nhớ của nó những cái hẹn trong mười năm sắp tới.

Mười năm sắp tới, là từ nay đến năm 2019. Tất cả những cái hẹn, từ hẹn tới phở Nguyễn Huệ ăn sáng với ông chủ tiệm có những cái ca vát rất đẹp, đến bữa ăn tối ở Laguna, chuyến đi San Jose đầu năm tới, sinh nhật mấy đứa cháu nội ngoại, thay nhớt máy xe, gia hạn báo Time, thượng thọ của... mình... tất cả đều có thể được giữ trong bộ nhớ, đến ngày đến tháng phải làm những chuyện đó, một tràng tiếng bíp, màn ảnh hiện ra hàng chữ nhắc người đàn ông đãng trí việc phải làm. Trong mười năm sắp tới.

Mười năm là xong tới hai kế hoạch ngũ niên của nhiều nước thích dùng con số 5 để hoạch định những chương trình hoạt động quốc gia.

Nhưng chuyện nghĩ đến hai kế hoạch ngũ niên bây giờ hình như ít người dám làm. Chuyến ra đi của những người bạn trên dưới tuổi chúng ta bắt đầu làm cho chuyện nghĩ cho năm năm, mười năm trở nên hơi... khó nghĩ. Mà toàn là những người sống mực thước, điều độ, lành mạnh đều đã "bất hứa nhân gian kiến bạch đầu" trong mấy năm trở lại đây.

Thế nên cứ mỗi năm, đứng trước một năm mới, là lại thấy như ông Mai Thảo chờ quà:

Sáu mốt cùng ta đứng trước thềm
Đợi trời thả tặng chút xuân thêm
Trời thôi tặng phẩm, xuân còn hết?

Quà của trời, của xuân cũng có khi hết, làm sao biết chắc sẽ xong nổi... hai cái kế hoạch ngũ niên?

Thì ông bạn gửi cho cái organizer giúp khỏi quên những cái hẹn của 10 năm tới.

Mấy hôm trước, tôi đọc được một câu nói của James Garner rất lý thú. Ông tài tử 72 tuổi này, khi được hỏi có những dự tính gì trong hai chục năm tới, đã trả lời rằng ông không hề dự phóng ra một tương lai xa như thế. Hãy cứ hỏi tuần tới có lẽ tiện hơn. Rồi ông cho biết ông lâu nay, khi đi chợ, không còn mua chuối xanh nữa.

Vậy mà hôm qua, ghé chợ mua ít trái cây và bình sữa để uống cà phê, tôi đã mua mấy quả chuối chưa chín, hy vọng còn có thể ăn được trong mấy ngày tới.

Như vậy là cũng đã chủ quan và yêu đời lắm rồi. Nhưng món quà của người bạn gửi cho thì có phải là lạc quan quá đáng không?

Chắc không, cái organizer do hãng sản xuất đã có sẵn bộ nhớ khá lớn đó. Người mua không đặt ra cái khả năng ghi nhớ những cái hẹn mười năm. Và người dùng thì lại càng vô can.

Cũng như những quả chuối còn xanh mua về chẳng phải là một suy nghĩ lạc quan gì. Chuối chín thì ăn với Danish blue cheese rất dở. Vậy thôi.


Ngày 27 tháng 11 năm 2009

Bạn ta,

Có lúc, tôi cứ nghĩ trong hoàng gia Anh, chắc chỉ có bà già Victoria là khó chịu nhất, mặt mũi lúc nào cũng khó đăm đăm, cái quạt phành phạch trong tay, mặt vênh lên với câu "tao không vui" (I am not amused) làm điên đầu những người đứng gần nàng như mấy ông thủ tướng Peel, Palmerston hay Gladstone.

Nhưng Victoria vẫn không khó chịu bằng má của Charles.

Má của Charles mấy năm trước đi Úc chơi. Hành lý của nàng mang theo khoảng hơn hai mươi tấn. Trong đó có cả một cái bệ cầu bọc da mềm để đỡ cái đít vương giả. Nàng chê mấy cái bàn cầu ở Úc không xứng với người phong lưu. Nhưng chuyện mang theo cái bệ cầu trong chuyến đi thăm Úc không làm bao nhiêu người bực bội. Ai mà thèm mất công bênh vực cho những cái bàn cầu bao giờ. Cho dù nàng có mang cái bàn cầu bịt vàng, nạm kim cương thì những chất bã của đồ ăn, có đại yến đi chăng nữa, thì qua những phản ứng hóa học trong ruột, khi tiến ra ngoài, vẫn giống hệt như của bọn thường dân chỉ mì gói và hamburger, TV dinner cả đời.

Đi Úc, một nước vẫn còn trong khối Thịnh Vượng Chung, bề gì cũng dễ. Tuy khuynh hướng cộng hòa khá mạnh ở Đại Dương châu, nhưng việc Úc dẹp hoàng gia cũng còn lâu mới xẩy ra được. Nữ hoàng vẫn còn được người dân Úc trọng nể mặc dù những chuyến đi thăm của nàng không đem lại lợi ích gì mà trái lại, có khi chỉ mang lại toàn những điều không vui như người Maori ở Tân Tây Lan, bên kia biển Tasman, vẫn tin từ bao lâu nay. Bởi vậy, có nhõng nhẽo đòi có cái bệ cầu bọc da mềm mới chịu vào ngồi nghĩ việc nước thì các kangaroo và koala vẫn tha, không phiền trách gì nàng.

Nhưng một lần, khi nàng đi thăm La Mã, cái khó tính của nàng đã làm cho người Ý phẫn nộ.

Nàng có lẽ chưa bao giờ nghe câu của thánh Ambrose (340-397) khuyên thánh Augustine: "Si fueris Romae, Romano vivito more; Si fueris alibi, vivito sicut ibi", nghĩa là khi ở La Mã thì hãy sống như người La Mã; khi ở chỗ khác, thì hãy sống như người ta sống ở đó.

Nàng ra lệnh đồ ăn thức uống của nàng không được có một nhánh tỏi nào. Một chút hơi tỏi cũng không được. Hành cũng thế. Pasta cũng cấm luôn. Sốt cà chua cũng không được.Đến nước Ý, xứ sở của pasta, sốt cà chua, tỏi... nàng nhất định không đụng tới mấy thứ ấy. Không đụng đến chúng thì cứ nhẹ nhàng, sao phải nhắng lên như thế. Không coi tự ái dân tộc Ý ra chi hết.

Thế nhưng chê đồ ăn Ý thì nàng ăn gì ở nước Ý?

Mang theo mấy thùng saveloy, tức là món hot dog bán đầy đường ở Mỹ nhưng được người Anh trân quý nhé? Hay mấy món rau luộc mềm nhũn, nát bấy ra? Hay fish and chips gói trong giấy báo vừa đi vừa lấy tay móc ra ăn?

Sao mà khó thế? Khó lắm, tắm cũng... xát xà bông chứ có mặc triều phục lúc đi tắm đâu.

Khó như vậy cần phải bỏ xuống thuyền vượt biên sang Poulo Bidong hay Galang ở vài tháng, ném cho cái pizza vừa có tỏi vừa có sốt cà chua xem có mừng mừng tủi tủi ăn liền không hay là vẫn cứ cơm phải ba món, hai món xào một món canh mới chịu ăn như đòi hỏi của các nhà quí tộc di tản chúng tôi sau khi vào đất liền được một... tuần?

Nhưng tại sao chê tỏi? Có là Dracula không mà sợ tỏi, hay chê ăn tỏi không lich sự, sợ ăn tỏi rồi không ai dám đến gần quá một thước?

Bây giờ, ở tuổi nàng, thì ai ngay quận công Philip cũng còn phải chắp tay sau đít đi cách ba bước ở phía sau thì ai còn dám đến gần quá một thước nữa mà lo kiêng tỏi?

Hay là ghen với ban Spice Girls?

Đòi làm Old Spice cho chúng tôi... cạo râu chăng?


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


(Bài số 55)

Bản chuyển tả do Quỳnh Anh thực hiện. Bài học số 55 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 12 năm 2009.

QUỲNH ANH:

Kính thưa quí vị, đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Nhã Lan, và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.

Chương trình đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống hàng ngày. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.

Tuần này, QA nhận được một bức thư của cô Nguyễn Đình Ngọc Bích ở Oregon muốn nhờ được chỉ cách dùng chữ EVER. Đó cũng lại là thắc mắc của cả Nhã Lan và QA. Vậy thì xin thầy nói về EVER trong bài học hôm nay vậy.

NHÃ LAN

Nhã Lan biết chữ EVER này nghĩa là bao giờ. Chữ này Nhã Lan hay gặp lắm, nhưng chắc nó có nhiều cách dùng phải không thưa anh?

BBT

Cô nói đúng. EVER là một trạng từ (ADVERB), nghĩa của nó, như cô Nhã Lan nói, là bao giờ, có bao giờ. Nó cũng có nghĩa là luôn luôn. Thí dụ EVERGREEN là cây vạn niên thanh, luôn luôn xanh mướt.

Trước hết, chúng ta có thể dùng nó để làm cho nghĩa của động từ mạnh thêm, nhấn mạnh vào động từ, làm cho nghĩa rõ hơn, mạnh hơn.

Thí dụ khi tôi hỏi DID YOU LIVE IN SEATTLE? thì tôi chỉ hỏi cho có chuyện, hỏi cho biết, hỏi nhưng cũng không mấy cần phải được trả lời, trả lời có cũng được, không cũng được, không có gì quan trọng cả. Nghe nói cô QA đã ở một tiểu bang miền tây bắc, tôi tò mò, thắc mắc không biết cô có ở Seattle, thành phố mà tôi cũng có lần đi ngang qua hay không.

QA

QA nghĩ là trong trường hợp anh quả tình muốn biết, vì Seattle là một thành phố rất đặc biệt, anh có vài ba người quen ở đó, có một hai tiệm ăn nổi tiếng ở đó, anh muốn biết QA có ở đó, có ở Seattle chưa, thì QA nghĩ lúc ấy QA sẽ dùng trạng từ EVER.

BBT

Đúng vậy. Thế thì cô nói thử coi.

QA

DID YOU EVER LIVE IN SEATTLE?

NHÃ LAN

Để nhấn mạnh thêm, Nhã Lan thấy người ta nhắc đi nhắc lại EVER một hai ba lần nữa đúng không thưa anh?

BBT

Đúng. DID YOU EVER, EVER, EVER LIVE IN SEATTLE? Bây giờ qua câu trả lời. Nếu đã có lần ở Seattle, thì chúng ta KHÔNG DÙNG EVER. Chúng ta dùng ALREADY.

QA

YES, I ALREADY LIVED IN SEATTLE đúng không ông thầy?

BBT

Đúng. EVER dùng cho câu hỏi. ALREADY dùng cho câu xác định ( AFFIRMATIVE) và trong câu phủ định (NEGATIVE), chúng ta dùng NOT EVER. Hay nói ngắn lại là NEVER.

Cô Nhã Lan chắc chưa ở Seattle bao giờ phải không?

NHÃ LAN

NO, I NEVER LIVED IN SEATTLE.

QA

Từ nay đến giờ, QA nghe mấy câu thí dụ anh đưa ra QA thấy hơi kỳ kỳ. Hình như QA thấy người ta dùng EVER với thì PRESENT PERFECT thường hơn phải không anh?

BBT

Đúng vậy. Cám ơn cô QA nêu ra chi tiết này. Cô nói rất đúng. EVER là bao giờ, có bao giờ. Thường khi nói bao giờ là chúng ta hàm ý là TÍNH TỚI NAY, CHO TỚI NGÀY HÔM NAY thì CÓ BAO GIỜ CHƯA.

Thì Present Perfect được dùng cho những chuyện bắt đầu trong quá khứ nhưng chưa chấm dứt, chưa hoàn tất, và cho những chuyện mà chúng ta còn tính tới ngày hôm nay, lúc này, bây giờ.

Vì thế, cô QA nói là cô nghe EVER thường được dùng với thì Present Perfect thì rất đúng. HAVE YOU VISITED THE ANGKOR WAT? nghĩa là cho đến ngày hôm nay, ông đã đi thăm Đế Thiên Đế Thích chưa? Nhưng thêm EVER vào thì nghĩa có mạnh hơn: HAVE YOU EVER VISITED ANGKOR WAT?

Hay thêm trạng từ BEFORE vào cũng sẽ làm cho nghĩa mạnh hơn: HAVE YOU EVER VISITED ANGKOR WAT BEFORE?

Cô QA, cô có thể cho nghe một, hai thí dụ với PRESENT PERFECT và EVER không?

QA

HAS HE EVER OWNED A FERRARI BEFORE?

HAS SHE EVER MET PRESIDENT OBAMA BEFORE?

BBT

Cám ơn cô QA. Bây giờ đến lượt Nhã Lan

NHÃ LAN

HAVE THEY EVER BEEN INSIDE THE WHITE HOUSE BEFORE?

HAVE WE EVER TASTED THIS AUSTRALIAN WINE BEFORE?

QA

Thế trong những câu phủ định, chúng ta cũng dùng NEVER chứ ?

BBT

Đúng. I HAVE NEVER SEEN OSAMA BIN LADEN BEFORE.

NHÃ LAN

Đúng như vậy đó. Thầy Trúc gặp rồi thì chuyện gì sẽ xẩy ra đây?

QA

HE MAY NOT BE HERE TODAY. HE MAY BE IN GUANTANAMO.

BUT MISTER BUI, HAVE YOU EVER SET FOOT ON CUBA?

BBT

NO, I HAVE NEVER VISITED MISTER CASTRO’S CUBA BEFORE. AND MAY NEVER WILL. Cô Nhã Lan cho nghe hai câu với PRESENT PERFECT và EVER coi.

NHÃ LAN

HAVE YOU, QA, EVER MADE SUSHI AT HOME BEFORE?

HAVE THEY EVER SHOPPED AT HARRODS IN LONDON BEFORE?

QA

Thưa anh, có dùng EVER trong các câu xác định không?

BBT

Có, nhưng nghĩa NEGATIVE vẫn nằm ở trong. Thí dụ khi chúng ta nói thế này:

THAT WAS THE BEST BOOK I HAVE EVER READ. Câu này nghĩa là đó là cuốn sách hay nhất mà tôi đã đọc được. Đây là một câu xác định. Không hề có chữ NOT ở trong. Nhưng ý nghĩa phủ định đã nằm sẵn ở trong: I HAVE EVER READ tuy ở thể xác định (AFFIRMATIVE) nhưng lại được hiểu là từ bé đến lớn, tử thuở cha sinh mẹ đẻ, từ lúc hiểu biết, từ lúc ra đời đến nay, TÔI CHƯA BAO GIỜ ĐỌC ĐƯỢC CUỐN SÁCH NÀO HAY NHƯ THẾ.

Cô Nhã Lan, khi cô nói HE IS THE MOST HANDSOME MAN THAT I HAVE EVER MET thì câu đó nghĩa là gì?

NHÃ LAN

Chàng là người đẹp trai nhất mà tôi đã gặp được trên đời này. Nhưng đó là thí dụ của anh đưa ra chứ Nhã Lan thì chưa bao giờ có dịp nói câu đó. I HAVE NEVER SAID THAT.

BBT

Cô QA, tưởng tượng sau khi ăn tối tại tòa Bạch Ốc xong, trên đường cô sẽ nói gì?

QA

IT WAS THE WORST DINNER THAT I HAVE EVER BEEN INVITED TO. Cầm cái muỗng, con dao cũng phải theo đúng cách, lấy cái khăn chùi miệng cũng phải làm điệu làm bộ. QA thích đi ăn cơm Thái, cơm Nhật với lũ con thoải mái hơn là được mời ăn tối với Michelle và Barrack Obama.

BBT

Cách nói như thế cũng không có gì khó cả. Chúng ta dùng thể so sánh cao nhất (SUPERLATIVE) trong mệnh đề đầu.

GREGORY PECK WAS THE BEST ACTOR THAT…

MISTER REAGAN WAS THE OLDEST PRESIDENT THAT…

MISTER OBAMA IS THE FIRST AFRICAN AMERICAN THAT…

THE LAMBORGHINI IS THE MOST EXPENSIVE CAR THAT…

THE WINTER OF 1980 WAS THE COLDEST WINTER THAT …

SANS SOUCI IN WASHINGTON DC IS THE NICEST RESTAURANT THAT…

Bây giờ mời hai cô nối vào sau những mệnh đề trên bằng những mệnh đề với trạng từ EVER coi hai cô đã hiểu chưa.

QA

GREGORY PECK WAS THE BEST ACTOR THAT HOLLYWOOD HAS EVER PRODUCED.

MISTER REAGAN WAS THE OLDEST PRESIDENT WHO HAS EVER LIVED IN THE WHITE HOUSE.

MISTER OBAMA IS THE FIRST AFRICAN AMERICAN THAT WAS EVER ELECTED TO THE PRESIDENCY.

NHÃ LAN

Bây giờ đến lượt Nhã Lan:

THE LAMBORGHINI IS THE MOST EXPENSIVE CAR THAT ITALY HAS EVER MADE.

THE WINTER OF 1980 WAS THE COLDEST WINTER THAT WE HAVE EVER KNOWN.

SANS SOUCI IS THE NICEST RESTAURANT THAT THEY HAVE EVER BEEN TO.

QA

Thưa thầy, một khán giả khác, ông Nguyễn Thiện ở Orlando, Florida hỏi cách dùng động từ TO NEED làm sao cho đúng.

BBT

NEED có thể vừa là danh từ, vừa là động từ. Khi là danh từ, NEED có nghĩa là nhu cầu, điều cần thiết, cái mà chúng ta cần.

Trong Anh ngữ có câu tục ngữ dùng danh từ NEED các cô nên biết. Cũng dễ nhớ thôi, đó là A FRIEND IN NEED IS A FRIEND INDEED.

IN NEED là vào lúc cần thiết, vào lúc đang thiếu, cần phải có. A FRIEND IN NEED nghĩa là người bạn đến với chúng ta trong lúc chúng ta gặp cảnh cùng quẫn nhất thì đó chính mới là bạn đích thực của chúng ta, IS A FRIEND INDEED, hay IS INDEED A FRIEND nhưng nói IS A FRIEND INDEED thì vần với IN NEED ở trên.

NHÃ LAN

Thế khi không cần thì nói NO NEED được không thưa thầy?

BBT

Được chứ. Thí dụ nói vào ngày 1 tháng 1, ngày đầu năm, các nhân viên không cần phải đến sở thì nói thế nào, cô Nhã Lan nói thử coi…

NHÃ LAN

ON NEW YEAR’S DAY, THERE IS NO NEED FOR US TO COME TO THE OFFICE.

QA

Hôm chở con QA xuống trường, QA đưa cho nó 100 đô la, nó đưa lại, và nói: MOM, I HAVE NO NEED FOR MONEY AT SCHOOL.

BBT

Như vậy, chúng ta hiểu cách dùng NEED khi nó là danh từ. NEEDY là tĩnh từ, nghĩa là nghèo. Thí dụ THE SALVATION ARMY TRIES TO HELP THE NEEDY PEOPLE AT CHRISTMAS.

NEEDLESS là không cần. Hai cô nên biết cách nói này để dùng IT IS NEEDLESS TO SAY. Cô QA đoán thử IT IS NEEDLESS TO SAY nghĩa là gì nào?

QA

IT IS NEEDLESS TO SAY nghĩa là khỏi cần nói cũng biết, cũng phải làm một chuyện gì đó. QA có nghe trong một bản tin mới đây câu đó nên mới biết khi bị ông thầy hỏi.

Thí dụ QA nói thế này có đúng không.

IT IS NEEDLESS TO SAY THAT THE REPUBLICANS DO NOT LIKE MRS PALIN NO MATTER WHAT SHE DOES OR SAYS.

BBT

Cô Nhã Lan cho nghe một câu với IT IS NEEDLESS TO SAY coi.

NHÃ LAN

WITH TWO DAUGHERS IN COLLEGE, IT IS NEEDLESS TO SAY THAT MY JOB AT HOME IS VERY DIFFICULT.

BBT

Khi nó là động từ, TO NEED có cách dùng hơi khác một chút. Các cô nên để ý.

NEED có thể được dùng như một trợ động tự (AUXILIARY VERB). Khi đó, NEED "cư xử" như CAN hay MAY, nghĩa là ngôi thứ BA số ít KHÔNG CÓ S, hệt như HE CAN, HE MAY. Theo sau là động từ nguyên mẫu không có TO (INFINITIVE WITHOUT TO)

Thí dụ: HE NEED NOT COME. Cô Nhã Lan cho một thí dụ với NEED dùng như một trợ động tự coi.

NHÃ LAN

Để Nhã Lan … thời sự một chút nhé: PRESIDENT OBAMA NEED NOT BOW TO EMPEROR AKIHITO được không anh?

BBT

Được quá đi chứ. Còn cô QA?

QA

MY SON NEED NOT PAY TUITION FOR HIS UNDERGRADUATE DEGREE.

BBT

Trong thể hỏi, chúng ta đặt NEED lên đầu, theo sau là CHỦ TỪ (SUBJECT), tiếp theo là động từ nguyên mẫu không có TO. Đây là một câu phủ định về chuyện con trai cô QA được học bổng đi học nên không phải trả tiền học phí: HE IS ON SCHOLARSHIP SO HE NEED NOT PAY TUITION. Nhã Lan đổi thành thể hỏi, tức là thể nghi vấn (QUESTION FORM hay INTERROGATIVE FORM) coi.

NHÃ LAN:

NEED HE PAY TUITION?

BBT

Còn cô QA, cô đặt câu hỏi ông Obama có cần cúi đầu khi chào Nhật Hoàng thì cô nói làm sao?

QA

NEED HE BOW TO EMPEROR AKIHITO?

BBT

Nhưng khi NEED là động từ chính (MAIN VERB) thì chúng ta phải dùng nó như các động từ khác.

Thí dụ HE NEEDS A NEW PAIR OF GLASSES. Cô Nhã Lan thấy khác không?

NHÃ LAN

Lần này nó là động từ chính. Ngôi thứ BA phải có S. Khi nó trợ giúp cho một động từ khác, thì nó là trợ động từ ( AUXILIARY VERB), nó không có S trong ngôi thứ BA số ít.

I KNOW HE IS VERY BUSY SO HE NEED NOT ANSWER MY LETTER.

Khi nó là động từ chính, ngôi thứ BA số ít phải có S: SHE NEEDS A DRIVER.

BBT

Khi ấy, câu hỏi sẽ như thế nào, cô QA?

QA

Khi ấy chúng ta phải dùng TO DO để hỏi và TO DO cho thể phủ định.

SHE NEEDS A DRIVER là xác định (AFFIRMATIVE)

DOES SHE NEED A DRIVER? là nghi vấn, là thể hỏi (INTERROGATIVE).

SHE DOES NOT NEED A DRIVER là thể phủ định (NEGATIVE)

BBT

NHÃ LAN, DO YOU NEED MORE EXPLANATION?

NHÃ LAN

NO, I DON’T NEED MORE EXPLANATION. NEED WE SPEND MORE TIME ON THIS VERB?

QA

NO I NEED NOT.

Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày của Hồn Việt Television đến đây xin tạm chấm dứt. Chương trình sẽ trở lại trên màn ảnh Hồn Việt Television vào tuần tới. Bùi Bảo Trúc, Nhã Lan và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị và hẹn gặp lại quí vị trong bài học tới.


CHỮ NGHĨA CHÚNG TA


Ông Nguyễn Minh, Garden Grove, California

Cũng như ông, nhiều người rất khó chịu về danh từ "con chữ". Danh từ này trước năm 1975 không thấy ở miền Nam. Nó chỉ xuất hiện trong báo chí, sách vở ở miền Bắc và ở miềnNam sau năm 1975. Một số nhà văn Việt Nam không khởi đi tư miền Bắc cũng vồ lấy hít hà, lôi ra dùng. Việc sử dụng những từ ngữ như thế chỉ cho thấy một hành động bắt chước, chạy theo đuôi một cách thiếu trưởng thành và cá tính.

Tại sao lại là "con chữ" mà không là "thằng chữ". Hay đó là "nom féminin" và "nom masculin" mà chúng ta dùng khi phân tích tự vựng hồi học tiếng Pháp? Nhưng tiếng Việt thì có bao giờ phân biệt danh từ giống đực và danh từ giống ái đâu mà "con chữ" với lại "thằng chữ"?

Ma mút không phải là con mamouth. Ma mút nghĩa là con ma nhưng lại còn xấu lắm: xấu như ma mút.

Ma cà rồng hay ma cà lồ đều là một. Ma cà bông là chữ mượn từ tiếng Pháp: vagabond nghĩa là người vô lại, lêu lổng, sống lang thang…

Ông Trần Lễ, Irvine, California

Cà răng căng tai là tên gọi một sắc tộc sống ở cao nguyên Trung phần có tục mài răng và nong lỗ tai cho to.

Cà răng núc nác là người mắc nợ quá nhiều không chịu trả.

Đồ Long Đô là tên chúng tôi dùng để gọi đùa thành phố Toronto nghe cho có vẻ Kim Dung một chút. Toronto phiên âm qua chữ Hán và đọc theo lối Việt Nam là Đa Luân Đa.

Cô Hà Vân, Chicago, Illinois

Câu "He can sell a refrigerator to an Esquimo" có một câu tương đương trong tiếng Việt, đó là câu "bán nắng cho trời, bán sấm cho thiên lôi".

Câu "He can sell you the Brooklyn bridge" nghĩa có hơi khác. Người bán chiếc cầu Booklyn cho bạn là người bịp giỏi hơn người bán cái tủ lạnh cho ông Esquimo.

Đà là tiếng cổ có nghĩa là đã. Khách đà (đã) lên ngựa, người còn ngó theo (Kiều)

Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan (Kiều câu 1502)

Loi thoi là không đều, lộn xộn, không ngay hàng thẳng lối.

Lơ thơ tơ liễu buông mành (Kiều câu 269)

Lơ thơ là thưa thớt, không dầy, không rậm

Ông Phạm X.N. (xuannguyen1952@yahoo.com)

"Đã lòng dậy đến, dậy thì phải vâng…" Đây là hai bài 29 và 33 trong tập The Gardener của Rabindranath Tagore:

XXIX

Speak to me, my love! Tell me in words what you sang.

The night is dark. The stars are lost in clouds. The wind is sighing through the leaves.

I will let loose my hair. My blue cloak will cling round me like night. I will clap your head to my bosom; and there in the sweet loneliness murmur on your heart. I will shut my eyes and listen. I will not look in your face.

When your words are ended, we will sit still and silent. Only the trees will whisper in the dark.

The night will pale. The day will dawn. We shall look at each other’s eyes and go on our different paths.

Speak to me, my love! Tell me in words what you sang.

Anh yêu quí, hãy nói cho em nghe ! Hãy nói cho em nghe bằng những lời anh hát.

Đêm tối đen. Sao chìm khuất sau những đám mây. Gió thở dài qua những chòm lá.

Em sẽ xõa tóc ra. Chiếc áo choàng xanh quấn lấy em như bóng đêm. Em sẽ ôm đầu anh vào ngực; và ở đó, trong cô đơn ngọt lịm thì thầm bên trái tim anh, em sẽ nhắm mắt lại và lắng nghe. Em sẽ không ngó thẳng vào khuôn mặt của anh.

Khi anh ngưng tiếng hát, chúng ta sẽ ngồi yên không nói. Chỉ có tiếng rừng cây thầm thì trong bóng tối.

Đêm rồi cũng sẽ nhạt đi. Bình minh sẽ trở lại. Chúng ta sẽ nhìn vào mắt nhau và chia tay mỗi người đi một ngả.

Hãy nói với em, anh yêu quí! Hãy nói với em bằng những lời anh đã hát.

XXXIII

I love you, beloved. Forgive me my love. Like a bird losing its way I am caught. When my heart was shaken it lost its veil and was naked. Cover it with pity, beloved, and forgive me my love.

If you cannot love me, beloved, forgive me my pain.

Do not look askance at me from afar.

I will steal back to my corner and sit in the dark.

With both hands I will cover my naked shame.

Turn your face from me, beloved, and forgive me my pain.

If you love me, beloved, forgive me my joy.

When my heart is borne away by the flood of happiness, do not smile at my perilous abandonment. When I sit on my throne and rule you with my tyranny of love, when like a goddess I grant you my favour, bear with my pride, beloved, and forgive me my joy.

Em yêu anh, anh yêu của em, hãy tha thứ cho em.

Như chim lạc lối, em sa vào bẫy. Khi tim rung động, mạng che tuột rơi, bầy ra trái tim trần trụi. Hãy thương em, hãy đem tình thương bảo bọc lấy tim em, anh yêu, và tha thứ cho em.

Nếu anh không thể yêu em, anh yêâu ơi, hãy tha thứ nỗi đau này của em.

Xin anh đừng từ xa đó nhìn em ngờ vực.

Em sẽ len lén trở về góc phòng ngồi trong bóng tối, lấy hai tay che nỗi trơ trẽn trần trụi của mình.

Anh yêu ơi, đừng nhìn em nữa, hãy tha thứ cho nỗi vui của em.

Khi tim em bị cuốn đi cùng sóng nguồn hạnh phúc, đừng cười cợt sự buông thả đầy nguy hiểm của em.

Khi lên ngôi báu, trị vì anh bằng tình yêu hà khắc, như một nữ thần, em sẽ ban ân huệ cho anh, anh hãy gắng chịu đựng niềm kiêu kỳ ấy và tha thứ cho niềm vui của em.