March 28, 2013

March 29, 2013


BÙI BẢO TRÚC SẼ NGHỈ MỘT TUẦN, KHÔNG CÓ BÀI TRONG TUẦN LỄ TỪ NGÀY 1 ĐẾN 5 THÁNG 4

Ngày 25 tháng 3 năm 2013
Bạn ta,
Một nhân vật phụ nữ của tiểu thuyết Lê Xuyên, trong những lúc tình tứ nhất, thỉnh thoảng lại vùng dậy hỏi người đàn ông: "Mà có thương tui hôn?" Người đàn ông trả lời, bao giờ cũng bằng giọng miễn cưỡng, là có thương. Những lúc khác, cô bắt người đàn ông phải thề bồi đủ thứ. Nhưng có vẻ cô còn rất nhiều nghi ngờ những lời thề cho qua chuyện của chàng nên thỉnh thoảng lại phải hỏi, để được trấn an bằng câu trả lời mà sự thực cô không tin lắm. Những khẳng định của chàng, tuy thế, cũng giúp để tiếp tục những cuộc hẹn hò mà tác giả Lê Xuyên có biệt tài kéo hàng mấy tuần lễ trên mặt báo.
May cho chàng, mà cũng may cho cô. Cô không biết chàng thực sự nghĩ sao về cô, chàng có yêu cô thật lòng không. Cô không biết nên vẫn hạnh phúc với chàng, mặc dù thỉnh thoảng lại phải hỏi để được nghe câu trả lời cô đã nghe bao nhiêu lần trước đó.
May cho chàng vì cô không thể có cách nào biết được là chàng có yêu cô không. Chàng có thể có, có thể không, cô không có cách nào biết được. Nên chàng thoát hiểm, nếu chàng không thực sự yêu cô.
Nhưng đó là hơn hai mươi năm trước. Thời gian đã quá lâu, trước những khám phá mới trong lãnh vực khoa học, những khám phá có thể khiến cho chàng không cách gì dấu được tình cảm đích thực về cô. Hơn nữa, không gian nơi diễn ra những cuộc gặp gỡ giữa hai người thì cũng tiện cho cả hai. Không gian không phải là một phòng thí nghiệm để máy móc có thể theo dõi và đưa ra kết luận là chàng nói thật hay không nói thật.
Hai người chắc cũng biết lơ mơ rằng khi người ta yêu, đôi mắt sẽ sáng lên, khuôn mặt rực rỡ, hào quang chói lọi.
Nhưng cũng có khi đang cơn đói, mùi thức ăn từ bếp đưa lên, phản ứng ghi nhận trên mặt cũng không khác khi người ta yêu nhau là mấy. Những khám phá mới đây của Andreas Bartels, một sinh viên ban tiến sĩ tại đại học Luân Ðôn, vừa được đem thuyết trình trong cuộc họp của Society for Neuroscience ở New Orleans tuần trước, có thể soi sáng những xó góc còn khá tối tăm mà hiểu biết của con người chưa đến được.
Những bức hình chụp não bộ (MRI) có thể giúp tìm ra được câu trả lời thực cho nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết của Lê Xuyên. Những phản ứng ở một số khu vực trong óc con người, từ 6 đến 20 khu vực, có thể cho biết câu trả lời của người đàn ông trong tiểu thuyết Lê Xuyên nói thật hay không khi bị người phụ nữ hỏi có yêu cô không. Trong số những khu vực ấy, có 4 nơi các khoa học gia thấy là cùng có những phản ứng giống nhau khi 11 phụ nữ và 6 người đàn ông tham dự cuộc thí nghiệm có những tình cảm mãnh liệt về đối tượng tình yêu của họ. Những phản ứng đó có thể đo được và chụp thấy rõ trên não động đồ.
Những khu vực cho thấy hoạt động bất thường nằm ở anterior cingulate cortex, gần đường chia giữa bộ óc, cùng với những khu có tên là putamen caudate.
Rồi đây, người ta có thể kèm với bó hoa cái não động đồ do một phòng thí nghiệm cung cấp và chứng thực là đương sự không nói... ghét thành yêu.
Hay phía bên kia cũng có thể đưa phía bên này tới phòng thí nghiệm chụp một cái coi thực hư ra sao.
Lúc ấy, chuyện thề bồi sẽ không còn cần thiết nữa. Lôi nhau đi chụp bức hình óc là biết ngay. Yêu cái trương mục với sáu hàng số của phía bên kia hình chụp cũng cho biết ngay. Cuộc đời sẽ bớt đi bao nhiêu là phiền toái.
Bấy giờ thử hỏi bao nhiêu người làm được như ông thân sinh của nhà thơ Phùng Quán vẫn dậy ông từ lúc còn rất nhỏ:
...Yêu ai cứ bảo rằng yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.
..

Mà nói ghét thành yêu là máy chụp hình não biết liền.
Vừa không thể nói dối được, và cũng không cần nói dối nữa.
Nhiều người có thể không thích nó vì coi nó là một sự vi phạm tự do tư tưởng của con người.
Nhưng một số thì lại rất thích nó, vì nó có thể được dùng như một biện pháp răn đe như võ khí nguyên tử đã được dùng một cách hữu hiệu trong mấy chục năm chiến tranh lạnh giữa Nga và Mỹ. Không phe nào có thể nói dối mà bên kia không biết được nữa.
Nhưng hay nhất, là nhờ nó, không cần phải nói dối, cũng chẳng cần cầm dao dọa giết.
Thế giới sẽ dễ sống biết là chừng nào!

Ngày 26 tháng 3 năm 2012
Bạn ta,
Ðúng vào lúc tôi có quyết định làm bức tượng thay vì làm chim bồ câu, thì sự lựa chọn của tôi không còn là một quyết định khôn ngoan và hợp lý nữa.
Tôi suy nghĩ đến bạc đầu và đi tới quyết định gạt bỏ giải pháp lựa chọn làm chim bồ câu, không phải vì sợ làm chim bồ câu sớm muộn gì cũng vào cái chảo trong các tiệm cơm Tầu, để cho các thực khách tại những đám cưới mời nhau dùng... chim ngay cho nóng, làm bộ ngượng, rồi vẫn ăn như điên, mà vì những lý do khác.
Nhưng bây giờ, muốn làm tượng cũng không được nữa.
Ở gần sở cuõ cuûa tôi có rất nhiều chim bồ câu. Chúng làm tổ trên những nóc nhà cao, trong những công ốc của chính phủ. Chuyện ăn uống của chúng được các du khách lo, chúng chẳng bao giờ đói. Chúng chỉ bay ào ào, đáp xuống cho có ăn, ăn xong thì đi ỉa bậy, cứ kiếm mấy bức tượng ở công viên gần đó mà oanh kích tự do, làm ông nào cũng mặt mũi, đầu tóc trắng xóa những cứt chim. Thỉnh thoảng, chúng cũng lầm tôi là tượng, cho một bãi lên đầu, lên vai đến khổ.
Nhưng bầy bồ câu ở công trường Trafalgar, Luân Ðôn thì khác. Tôi có cảm tưởng chúng nó tử tế hơn, không mất dậy như những con bồ câu ở gần quốc hội Mỹ. Những con ở công trường Trafalgar không ào xuống như ăn cướp, mà chúng rất từ tốn. Hai đứa con tôi hồi còn nhỏ rất yêu chúng, chủ nhật nào cũng đòi đi công trường Trafalgar cho chim ăn và chơi với bốn con sư tử dưới chân tượng đô đốc Nelson, hay tượng Sir Charles James Napier, tượng Sir Henry Havelock gần đó. Bầy chim bồ câu dạn người bay là là đáp xuống đậu trên tay, trên vai du khách chờ được cho ăn như chúng đã làm từ cả gần một thế kỷ nay.
Nhưng nếu đô trưởng Luân Ðôn thực hiện được ước muốn của ông, thì mấy pho tượng, trừ tượng thủy sư đô đốc Lord Horatio Nelson, người có công đánh tan hạm đội Pháp Tây Ban Nha ở gần Gibraltar, sẽ bị cho ra bờ sông Thames đứng chơi, và bầy bồ câu sẽ bị đưa đi nơi khác.
Thế là chọn không làm bồ câu, chọn làm "tượng thờ nghìn bệ những công viên" (thơ Mai Thảo) cũng không xong, cũng không được những giọt mưa rớt xuống mặt, bị cứt chim rơi xuống tóc kể như là không được.
Sở dĩ có chuyện chọn làm tượng mà không làm chim là vì mấy hôm trước tôi đọc được một câu thật hay viết trên bậc cửa của một toa xe điện ngầm. Vị triết gia vỉa hè có một câu hay tuyệt: Nên sớm chọn lấy trong đời một quyết định, đó là làm pho tượng hay làm con bồ câu ở công viên.
Làm con chim câu, như những con rất du côn ở gần sở tôi, hay như những con rất đàng hoàng và tử tế ở công trường Trafalgar, đều chung nhau một trò chơi rất đểu, đó là ỉa lên đầu những pho tượng.
Không thể sống trong đời sống chỉ làm có một việc là ỉa đái lên đầu những pho tượng. Không thể cả đời cứ sống như thế mãi được. Làm công việc ấy không có gì vui cả.
Nhưng làm những pho tượng, cả đời chỉ để cho những con bồ câu ỉa lên đầu thì cũng có gì vui? Nhất định là không vui rồi. Cứ đứng "trơ trơ như đá, vững như đồng" như phỗng đá của Nguyễn Khuyến có thể cũng có những điều hài lòng khác. Không phản ứng lại, không vung được cả cánh tay để xua chim đi, cho chim khỏi ỉa xuống mình có thể là một hành động tuyệt đẹp của một Thiền sư.
Cuốn Thiền Nhục Thiền Cốt của Nyogen Senzaki kể chuyện Thiền sư Hakuin bị một cô gái trong làng đổ cho là cha của cái bầu cô đang mang. Cha mẹ cô gái giận lắm, đến chửi rủa Hakuin thậm tệ. Hakuin nghe chửi đầy tai, chỉ nói lại có một câu: "Vậy sao?" Cô gái sinh con, đem đưa cho Thiền sư Hakuin nuôi. Hakuin đi xin sữa về nuôi đứa bé. Một năm sau, cô gái ân hận, thú thật anh bán cá ngoài chợ mới là cha đứa bé. Cha mẹ cô gái đến xin lỗi, xin đem cháu về nuôi. Hakuin trao đứa bé lại, và cũng vẫn chỉ nói: "Vậy sao?"
Hai bức tượng của Napier và Havelock sắp ra bờ sông đứng với những oan khuất của những bãi cứt chim lại còn không làm được cả việc của Thiền sư Hakuin là hỏi lại một câu.
Nhưng bị đem ra bờ sông Thames bầy thì chán chết, làm tượng đứng bờ sông mà làm gì. Sao mà chán the này hở Giời ơi là Giời!
Nhưng bị đạp lên đầu, bị xô xuống đất, bước lên người cũng có cái vui riêng, và một lương tâm trong sáng. Làm tượng vẫn hơn làm bọn bồ câu mất dậy chuyên ỉa lên đầu tượng.

Ngày 27 tháng 3 năm 2013
Bạn ta,
Hồi ở trung học, gần như tất cả chúng ta đều học Anh ngữ với bộ Anglais Vivant của Pierre Carpentier và Madeleine Carpentier-Fialip, bộ sách mà nhiều người cho là tại sao học sinh Việt Nam phải dùng bộ sách do một cặp giáo sư Pháp viết cho các học sinh Pháp.
Nhưng nghĩ lại thì bộ sách ấy đã giúp chúng ta rất nhiều khi học tiếng Anh và văn hóa của nước Anh. Ngoại trừ một số ngữ vựng hơi cũ, nhưng chúng ta không thấy bỡ ngỡ bao nhiêu khi tiếp xúc với người Anh và người Mỹ hồi những năm 60 khi đi học ở các nước sử dụng tiếng Anh.
Sau đó, bộ Life With The Taylors, Let’s Learn English, English For Today của những năm 60 thì mới hơn để học tiếng Mỹ cùng những bộ dậy Anh ngữ của nhà xuất bản Longman mà ở Việt Nam cũng được sử dụng rất nhiều để học.
Ngày nay, những bộ sách đó không còn được dùng ở Việt Nam nữa, mà người ta dùng những sách của Tầu dịch sang tiếng Việt để dậy tiếng Anh. Những bộ sách chúng ta dùng trước đây đều do các nhà giáo đầy kinh nghiệm dậy tiếng Anh viết nên tất cả đều là những tài liệu giá trị đã qua được những thử thách ở nhiều nước trên thế giới.
Nhưng những cuốn sách Tầu thì có thể tin được không? Sách thì do Tầu viết, giáo viên thì thuê Phi dậy cho rẻ thì lối giáo dục như thế ở Việt Nam sẽ dậy người học Anh ngữ ra làm sao?
Thì đây, học thứ sách vở , tài liệu giảng huấn như thế chỉ làm được có một việc là tập cho học sinh làm quen với cái bản đồ lưỡi bò và lá cờ ngũ tinh hồng kỳ của Tầu chứ dậy được cái gì.
Học những thứ sách như thế thì sẽ nói và viết tiếng Anh như thế nào?
Bạn coi thử mấy thí dụ về cái thứ tiếng Anh dùng những thứ tài liệu học tiếng Anh mà người ta thấy ở Hoa lục nhé.
You consciously flush là cái gì? Nhớ giật nước thì tại sao không viết DON’T FORGET TO FLUSH?
Don’t Play Dog In Park thì ai chẳng nghĩ là đừng đóng vai chó (người Tầu chắc đóng vai này xuất sắc lắm) trong công viên. Tại sao không viết là DO NOT LET YOUR DOGS RUN FREE IN THE PARK?
Muốn dặn người sử dụng nhà cầu là tiểu vào bồn mà viết Urinating into the pool you are the best thì mọi người sẽ tiểu vào bể bơi mới là con người tốt hay sao? Tại sao không viết DO NOT URINATE OUTSIDE THE URINALS?
Tất cả các món trong thực đơn đều ghê rợn, nhưng dễ sợ nhất là món Fries pulls out the rotten child. Có thể đây là món khoai chiên. Fries số nhiều tại sao động từ đi sau lại là pulls? Nhưng món khoai chiên này lại móc ra từ một đứa bé ung thối thì bố Mao Trạch Đông cũng không dám đụng đũa.
Programmers Urine Shrimp là tôm nước đái thảo chương viên điện toán ăn thế nào thì may ra Tập Cận Bình mới biết được.
Tấm bảng này dặn khách chú ý dùng răng thì khỏe mạnh thay vì dùng cái gì đây?
Lời căn dặn là trượt chân một cách cẩn thận. Thế không cẩn thận thì té vào cái mả mẹ thằng Ba Dũng hay sao?
Boiled Meat (Lamp) , món thịt đèn luộc là món ăn dưới ánh đèn cho … sáng dạ chắc. Thịt cừu non là LAMB, thịt cừu …lớn tuổi là MUTTON chứ bộ đói lắm hay sao phải đớp cả cái đèn (LAMP)?
HINH SO 9
We can not speak English but We can feel you !! là chúng tôi không nói tiếng Anh nhưng chúng tôi có thể sờ nắn quí vị !!
HINH SO 10
A dairy style Rain coat. It can put on the day of rain the day of chilly. May ra người đọc sẽ hiểu là áo mưa kiểu sữa (daily mới là thường ngày). It can put on… là cái áo tự nó mặc lấy trong ngày mưa lạnh hay sao? Tại sao không viết CONVENIENT FOR RAINY, CHILLY DAYS?
HINH SO 11
Lời dặn dò rất chất phác: xin chỉ đái vào đây, nếu không sẽ bị phạt. Ối chao ôi là tiếng Anh!
Thuốc bóp chân mà sao lại phải chà xát (rubbing the horny) cái của nợ ấy?
HINH SO 12
Biết chết liền!
HINH SO 14
Học tiếng Anh của sách Tầu thì sẽ viết những câu đại loại thế này: Loại mìn này được dùng để bú ( suck 4 enemy warships) 4 tầu địch bởi nhóm 126 của hải quân Việt Nam.
Học Anh ngữ bằng sách Tầu thì chỉ nói và viết tiếng Anh như … Tầu mà thôi.
Đường xa nghĩ noi sau này mà kinh!

Ngày 28 tháng 3 năm 2013
Bạn ta,
Tôi không thể nào nhớ được tên người đã nói câu "Le moi est haissable".
Cuốn Petit Larousse mà tôi có cũng không giúp gì được. Ở trang 667 của ấn bản 1962, câu này chỉ được dẫn như một thí dụ cho đại danh từ số ít ngôi thứ nhất "moi", mà không cho biết tác giả là ai. Không có tác giả, tức là của dân gian, và như vậy, thì tất cả dân tộc Pháp đều ghét "cái tôi" ư? Sao lại có cái dân tộc khiêm tốn, nhún nhường, không ích kỷ đến như thế!
Le moi est haissable, "cái tôi" đáng ghét, nhưng thực ra, có lẽ phải dịch là "cái tao" mới đúng.
"Tôi" là đại danh từ ngôi thứ nhất, là tiếng tựï xưng khi nói chuyện với người khác. Nhưng trong cách tự xưng đó, sự khiêm tốn, nhún nhường đã có sẵn rồi. Tự xưng là "tôi" hay " tớ", là tự hạ mình xuống làm kẻ hầu người hạ cho người đứng trước, người đang nói chuyện, đang đối thoại với mình.
Xưng "tao" thì sấc xược và phách lối, hỗn hào hơn nhiều. Vậy thì "cái tao" mới là cái đáng ghét. Ðối tác của "tao" "mày". Mày tao là cách xưng hô không lịch sự lắm. Phải thân tình lắm nếu không thì lại là người trên nói với kẻ dưới ngay.
Mày tao không phải là tutoyer. Tutoyer khi yêu dùng cũng được, lại càng rất được nữa mới đúng:
Je dis tu à tous ceux que j'aime ( Barbara / thơ Prévert)
Nhưng mày tao trong tiếng Việt thì khác. Không ai muốn bị những người không thân thiết lắm gọi là "mày", xưng là "tao" hết.
Ngoại trừ người Việt di tản, nhất là những người Việt di tản sống tại Mỹ. Không biết sự kiện này bắt đầu ở đâu và vào lúc nào. Nếu cần định ra một mốc thời gian thì có thể nó bắt đầu sau năm 1975 khi người Việt đến Mỹ.
Trong những giao tiếp hàng ngày, khi những cuộc đối thoại bằng tiếng Anh được đem kể lại, thì hầu như tất cả những người Việt mà tôi quen, già cũng có, trẻ cũng có, người trước kia làm to, người trước kia không làm to, nam cũng như nữ đều cho phép những người đối thoại với mình xưng là "tao" và gọi mình bằng "mày" một cách thoải mái.
Nghe câu chuyện được kể lại, để ý thì có thể thấy người kể để cho phía bên kia, có khi là một thanh niên trẻ, tự xưng là "tao" và gọi người kể truyện, có khi là một cụ lục tuần, thất tuần, là "mày". Có lần tôi thắc mắc hỏi một cụ ông đang cao hứng kể một câu chuyện, trong đó, anh chàng người Mỹ nào đó tuổi chắc chỉ bằng cháu của cụ, mà cụ cứ cho gọi cụ là "mày", xưng "tao", tôi sốt ruột quá, chặn cụ lại để hỏi tại sao cụ lại để cho những điều vô lễ như thế xẩy ra, thì cụ hứ cho một cái, không thèm trả lời, tiếp tục kể nốt chuyện, cho anh chàng Mỹ nọ... hỗn láo tiếp.
Tại sao đại danh từ "I" trong tiếng Anh lại cứ phải được dịch là "tao" "you" thì nhất định phải là "mày"?
Tôi nghĩ tôi tìm ra được nguyên do.
Nguyên do là vì chúng ta là những người rất khiêm cung, lúc nào cũng muốn hạ mình xuống, tâng người khác lên. Do đó mà khi kể lại câu chuyện có mình ở trong, chúng ta đẩy nhẹ chúng ta thấp xuống một chút, và lịch sự đưa người kia lên. Do đó mà mới có nhưng đoạn đối thoại kỳ lạ như thế, cho phía bên kia gọi chúng ta bằng "mày", xưng "tao" rất tự nhiên.
Ở bên Tây chắc không có chuyện như vậy. Cứ xưng là "moi", gọi phía bên kia là "toi" là tiện nhất, là không ai vô lễ với ai, là không ai phải tự hạ thấp xuống với ai cả.
Chỉ trừ khi kể lại chuyến đi chơi bằng xe lửa thì nên dấu chuyện đã làm trong đêm khi xe chạy từ Pháp sang Ðức: đêm đó, kẹt quá, "moi" phải leo đại lên đầu toa, "moi" đi tiểu tùm lum...
"toi""toa" trong những lúc như thế không sao mà phân biệt được. Chỉ có cách lấy tay sờ đầu, nếu thấy đầu không ướt thì là... toa tầu. Ướt thì là "toi" vậy.
Nhưng vẫn đỡ hơn là mày tao như ở bên Mỹ nhiều.

Ngày 29 tháng 3 năm 2013
Bạn ta,
Sau nhiều năm áp dụng những luật lệ hết sức nghiêm ngặt để hạn chế sinh sản, kiểm soát mức gia tăng dân số, trừng phạt nặng những cặp vợ chồng có nhiều con hơn là số mà chính phủ cho phép, Singapore đã bắt đầu thấy hậu quả của những biện pháp đó: mức tăng trưởng dân số hạ giảm, và điều đó sẽ tạo ra những khó khăn cho nền kinh tế trong những năm sắp tới.
Sinh suất của Singapore đã xuống thấp tới mức phải báo động, và một số biện pháp nhắm đảo ngược chiều hướng hiện nay đã được đem ra áp dụng để gia tăng mức sinh sản cho người dân đảo quốc này.
Một trong những cơ sở lớn và quan trọng tại Singapore là DBS Group Holdings, một ngân hàng đầu tư với 8,000 ngàn nhân viên đã có một quyết định để ủng hộ cho mục tiêu gia tăng số sinh để giúp dân số Singapore tăng thêm ngõ hầu đáp ứng nhu cầu nhân công trong tương lai, khỏi bị bỏ lại đằng sau, khi việc toàn cầu hóa kinh tế đi tới khắp ngang cùng ngõ hẻm trên thế giới.
Ngân hàng DBS Group Holdings quyết định cắt ngắn giờ làm việc của các nhân viên, đang từ năm ngày rưỡi mỗi tuần, xuống còn năm ngày. Nửa ngày này các nhân viên được nghỉ để giúp cho chương trình Focus On The Family Programme nhắm gia tăng mức sinh sản của Singapore. Ngân hàng khi quyết định như trên, đã nói khá rõ với các nhân viên về cách tiêu nửa ngày không phải đi làm đó. Ngân hàng muốn nhân viên dùng nửa ngày được nghỉ vào việc giúp gia tăng số sinh của Singapore.
Như vậy, Singapore không hoàn toàn là nơi không đáng để sống như một vài người bạn của tôi đã nói. Nước gì mà cấm nhập cảng chewing gum, không giật nước trong nhà cầu bị phạt cả trăm Mỹ kim, ném mẩu thuốc lá đã hút xuống đường cũng bị phạt, đi qua đường không đúng chỗ cũng bị phạt, đi tiểu trong thang máy cũng bị phạt rất nặng. Ông kẹ Lý Quang Diệu tuy không còn nắm quyền, nhưng ảnh hưởng của ông  vẫn không giảm bớt. Ông con trai là Lý Hiển Long vẫn lấp ló đằng sau, đối lập không dám hó hé gì hết.
Nhưng Singapore lại có cái ngân hàng thật là dễ thương: cho nhân viên nghỉ nguyên nửa ngày để giúp gia tăng dân số.
Nhân viên được nghỉ ở nhà là phải làm đúng như ngân hàng đã nói. Không có chuyện nằm nhà chơi ô chữ, hát Karaoke, đọc sách, nuôi cá, đi câu hay làm bất cứ chuyện gì khác.
Vợ của các nhân viên ngân hàng sẽ nhắc nhở các ông chồng phải làm đầy đủ công việc mà ngân hàng DBS Group Holdings đã trao phó khi cho nghỉ một nửa ngày, khỏi phải đến sở. Như vậy, chuyện nài nỉ không còn cần thiết nữa, cứ lôi ngân hàng ra dọa là phía bên kia bỏ cả lồng chim, chậu cá, ô chữ... vào tuân lệnh răm rắp. Các ông không làm, các bà có thể khiếu nại với sở, tố cáo các ông không tuân lệnh của sở, tiêu phí nửa ngày vào những chuyện vô bổ khác thì mất việc là cái chắc. Ở một nước kỷ luật nghiêm ngặt như Singapore, chuyện vặn cái radio quá to còn bị phạt lè lưỡi ra thì hình phạt cho những người không tuân lệnh không thể coi thường được.
Tờ Far Eastern Economic Review không cho biết là các nhân viên được nghỉ mà không có hoạt động gì để giúp gia tăng dân số của Singapore sẽ bị những hình phạt gì, nếu có lý do chính đáng có được ân miễn không, làm thế nào để chứng minh là có làm đủ công việc trao phó vân vân.
Nhưng như vậy thì đâu còn được gọi là cho... nghỉ nữa? Ngân hàng gì mà ác quá vậy?
Có phải vì thế mà nhiều người không dám về hưu không? Sức người có hạn thôi chứ!

ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

(Bài số 166)
MOST, ALMOST
SOME USEFUL PHRASAL VERBS
Bản ghi chép lại do Lãm Thúy thực hiện. Bài học số 166 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 6 năm 2013.
QUỲNH ANH:
Đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc , Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.
Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.
BBT
Hôm nay tôi sẽ chỉ cho hai cô một cách nói mà tôi nghĩ hai cô cũng thường hay gặp, nhất là từ phía các con của hai cô. Đó là câu "nhất từ xưa đến nay" mà chính chúng ta cũng thường hay nói trong tiếng Việt, với một chút phóng đại ở trong. Thí dụ nói một ngày rất nóng thì nhiều khi chưa đủ, mà phải nói đó là một ngày nóng nhất từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa bao giờ trải qua một ngày nóng như thế.
IT WAS THE HOTTEST DAY I HAVE EVER LIVED THROUGH chẳng hạn. Kiểu nói này chúng ta sẽ cần cách so sánh nhất: SUPERLATIVE tức là với tĩnh từ ở cấp so sánh NHẤT.
Làm thế nào để có so sánh lớn nhất, Lãm Thúy?
LÃM THÚY
Với tĩnh từ ngắn tức là có 1 hay 2 syllables, người ta thêm EST ở cuối để thành SUPERLATIVE COMPARISON. Như HOT thành THE HOTTEST, COLD thành THE COLDEST, PRETTY thành THE PRETTIEST, NOISY thành THE NOISIEST. Với tĩnh từ dài tức là có BA syllables trở lên, chúng ta dùng THE MOST đứng ở phía đằng trước. Thí dụ THE MOST BEAUTIFUL, THE MOST INTELLIGENT, THE MOST DIFFICULT…
QA
Nhưng thưa anh, cũng có những trường họp ngoại lệ như GOOD thành THE BEST; BAD thành THE WORST; FUN thành THE MOST FUN; BORING thành THE MOST BORING, ILL thành THE WORST.
BBT
Cám ơn cô QA. Theo sau đó là mệnh dề THAT+ SUBJECT+PRESENT PEFECT .
Thí dụ đó là câu hỏi khó nhất tôi đã gặp… IT WAS THE MOST DIFFICULT PROBLEM THAT I HAVE SEEN (to see, saw, seen). Lãm Thúy nói thử câu này bằng tiếng Anh coi: Đó là một người thông minh nhất mà tôi đã gặp.
LÃM THÚY
HE WAS THE MOST INTELLIGENT MAN THAT I HAVE MET (to meet, met, met). Thúy làm thêm một câu nữa là SHE IS THE MOST BEAUTIFUL LADY THAT HE HAS KNOWN. (to know, knew, known)
BBT
Cám ơn Thúy. Đúng lắm. Còn QA?
QA
IT WAS THE MOST BORING BOOK THAT I HAVE READ. (to read, read, read)
THAT IS THE WORST CAR THAT I HAVE DRIVEN. (to drive, drove, driven)
BBT
Muốn cho ý nghĩa của câu mạnh hơn, chúng ta thêm EVER vào giữa HAVE và PAST PARTICIPLE để có nghĩa "đã từng" . Câu của QA có thể đổi thành THAT WAS THE WORST CAR THAT I HAVE EVER DRIVEN (to drive, drove, driven). QA sửa câu thí dụ kia của cô với EVER coi.
QA
IT WAS THE MOST BORING BOOK THAT I HAVE EVER READ (to read, read, read).
LÃM THÚY
HE WAS THE MOST INTELLIGENT MAN THAT I HAVE EVER MET (to meet, met, met).
SHE IS THE MOST BEAUTIFUL LADY THAT HE HAS EVER KNOWN (to know, knew, known). Nhưng thưa anh, Thúy có thể bỏ THAT trong những câu ấy không?
BBT
Được chứ. Cô làm thử hai thí dụ mà không dùng THAT coi.
LÃM THÚY
HE IS THE RICHEST PERSON WE HAVE EVER MET. (to meet, met, met)
THEY WERE THE WARMEST PEOPLE WE HAVE EVER KNOWN. (to know, knew, known)
QA
SHE IS THE BEST SINGER WE HAVE EVER HEARD. (to hear, heard, heard)
THAT IS THE COLDEST NIGHT WE HAVE EVER SPENT (to spend, spent, spent) IN CALIFORNIA.
BBT
Dĩ nhiên chúng ta cũng có thể dùng cách nói này trong thể phủ định tức là NEGATIVE như MISTER OBAMA IS NOT THE BEST PRESIDENT WE HAVE HAD. Thúy cho nghe hai thí dụ của cô coi, rồi tới QA.
LÃM THÚY
ROLLS ROYCE IS NOT THE MOST EXPENSIVE CAR I HAVE SEEN. (to see, saw, seen)
BRAD PITT IS NOT THE MOST TALENTED ACTOR WE HAVE MET. (to meet, met, met)
QA
THE WAR IN IRAQ IS NOT THE LONGEST WAR THAT AMERICA HAS FOUGHT. (to fight, fought, fought)
"WAR AND PEACE" IS NOT THE BEST NOVEL TOLSTOY HAS WRITTEN. (to write, wrote, written)
BBT
Bây giờ chúng ta tập đặt câu hỏi với kiểu đặt câu trên. Chúng ta dùng WHAT, WHO … thí dụ WHAT IS THE BEST NOVEL TOLSTOY HAS WRITTEN? (to write, wrote, written) Thúy cho nghe thí dụ của cô coi.
LÃM THÚY
WHO IS THE NICEST PERSON IN THAT FAMILY THAT YOU HAVE MET? (to meet, met, met)
WHAT IS THE BEST FILM YOU HAVE SEEN (to see, saw, seen) OF GARY COOPER?
QA
WHAT IS THE NICEST PLACE YOU HAVE BEEN (to be, was/were, been) TO?
WHAT IS THE MOST EXPENSIVE HOTEL YOU HAVE SLEPT (to sleep, slept, slept) IN?
LÃM THÚY
Thúy muốn anh dậy cho mấy câu thường hay gặp khác để dùng trong những lúc giao tiếp hàng ngày.
BBT
Chỉ mấy câu thôi sao? Có rất nhiều câu hai cô nên biết nhưng hôm nay, tôi sẽ chỉ nói về 5 PHRASAL VERBS, tức là những động từ đi kèm với một hai chữ khác mà chúng ta hay gặp và tiện dụng nhất. Trước hết là TO LOOK FORWARD TO nghĩa là mong đợi để làm việc gì đó hay chờ một chuyện gì đó sẽ xẩy đến. Đây là cách dùng mà tôi tin chắc thế nào hai cô cũng dùng sai. QA cho nghe một thí dụ coi.
QA
Thí dụ câu này: I LOOK FORWARD TO MEET MY NEW NEIGHBOR nghĩa là QA nóng lòng muốn gặp hàng xóm mới dọn đến bên cạnh nhà QA.
BBT
Quả nhiên, đúng như tôi nghĩ. QA nói như vậy không đúng. Phải nói là I LOOK FORWARD TO MEETING MY NEW NEIGHBOR . Rất nhiều người nói sai vì PREPOSITION TO khiến người ta đem dùng ngay một INFINITIVE, một động từ nguyên mẫu. Trong khi đúng ra thì sau TO LOOK FORWARD TO chúng ta dùng một DANH TỪ hay một DANH ĐỘNG TỪ (GERUND: VERB+ING) mới đúng. QA cho một thí dụ khác coi.
QA
MY DAUGHTER IS LOOKING FORWARD TO HER TRIP (NOUN) TO WASHINGTON DC hay TRAVELLING (GERUND) TO DC.
LÃM THÚY
I ALWAYS LOOK FORWARD TO THE WEEK-END (NOUN).
CHILDREN ALWAYS LOOK FORWARD TO GOING (GERUND) TO THE BEACH.
BBT
QA và Thúy thử dùng thể hỏi (QUESTION FORM) của những câu đó coi.
QA
DOES HE LOOK FORWARD TO VACATIONING (GERUND) IN WASHINGTON DC ?
DO YOU LOOK FORWARD TO THE GRADUATION DAY (NOUN) ?
LÃM THÚY
ARE YOU LOOKING FORWARD TO SUMMER (NOUN) ?
DID HE LOOK FORWARD TO HIS WEDDING (NOUN)?
BBT
Thể phủ định thì dễ rồi. Bây giờ chúng ta qua một động từ khác là TO GET ALONG WITH, nghĩa là hợp, hòa hiếu với ai đó, trở thành thân thiện với người khác. Thí dụ I GET ALONG WITH HIM EASILY là tôi hợp với anh ấy một cách dễ dàng. Lãm Thúy cho biết cô có thể GET ALONG với những gì nào?
LÃM THÚY
I THINK I CAN GET ALONG WITH OLD PEOPLE, WITH MY IN-LAWS, WITH MY HISPANIC NEIGHBORS.
QA
Còn QA thì I CAN GET ALONG WITH DOG PEOPLE, những người yêu chó, WITH NIGHT PEOPLE, những người thức khuya, WITH CHILDREN.
BBT
HAI cô KHÔNG GET ALONG với những người thế nào?
LÃM THÚY
I CANNOT GET ALONG WITH NAGGERS, WITH STINGY PEOPLE, WITH BRAGGERS.
QA
I CANNOT GET ALONG WITH SELFISH PEOPLE, WITH LOUD CHILDREN, WITH BOSSY PEOPLE.
BBT
Động từ TO PUT UP WITH cũng là động từ chúng ta nên biết vì chúng ta hay gặp những trường hợp phải dùng đến nó. TO PUT UP WITH SOMETHING, SOMEBODY là chịu đựng một chuyện gì hay một người nào đó. Thí dụ I HAD TO PUT UP WITH HIS SWEARING, HIS FOUL LANGUAGE là tôi phải chịu đựng trò chửi thề, ăn nói tục tĩu của ông ta. Còn Thúy thì sao?
LÃM THÚY
I HAD TO PUT UP WITH THE BAD WEATHER, WITH MY TEENAGE CHILDREN, WITH THE ECONOMY.
QA
WE ALL HAVE TO PUT UP WITH THE TRAFFIC ON 405 EVERYDAY, WITH MISTER OBAMA FOR THREE MORE YEARS, WITH NORTH KOREA AND IRAN .
BBT
Động từ TO GIVE UP SOMETHING cũng hay gặp và rất nên biết. Động từ GIVE UP là bỏ, là ngưng, là chừa như chừa thuốc lá, chừa rượu. What about you, Thúy?
LÃM THÚY
Thúy nghĩ Thúy phải GIVE UP COFFEE, BUT I CANNOT GIVE UP SHOPPING. I NEED TO GIVE UP WORRYING TOO MUCH ABOUT THE KIDS.
QA
QA thì cần GIVE UP SUGARY DRINKS. I MUST GIVE UP READING AT NIGHT. I WANT TO GIVE UP GARDENING .
BBT
Động từ này cũng rất cần cho chúng ta, đó là TO PUT OFF SOMETHING nghĩa là trì hoãn, lần lữa, không làm ngay một việc gì đó. Câu này của Benjamin Franklin là câu tôi ghét kinh khủng vì hồi còn bé, tôi hay bị la về chuyện để việc hôm nay tới ngày mai: NEVER PUT OFF UNTIL TOMORROW WHAT YOU CAN DO TODAY. Còn hai cô thì hay hoãn binh những gì?
LÃM THÚY
I ALWAYS PUT OFF THE WASHING, CLEANING FOR THE CHILDREN UNTIL SUNDAY.
QA
I ALWAYS PUT OFF BILL PAYING UNTIL THE END OF THE MONTH.
LÃM THÚY
Thưa anh, đó là TO PUT OFF, trái nghĩa với TO PUT OFF có phải là TO PUT ON không?
BBT
Không phải. TO PUT ON thì lại là đeo vào, mặc vào, khoác vào như TO PUT ON NEW CLOTHES, TO PUT ON AN IMPORTANT AIR nghĩa là làm ra bộ quan trọng. TO PUT ON SOME WEIGHT là lên cân, mập ra… Động từ TO PUT có thể đi với rất nhiều PREPOSITIONS để thành những nghĩa rất khác nhau. Chúng ta sẽ trở lại với động từ này trong một dịp khác.
LÃM THÚY
Thưa anh, Thúy có thắc mắc về cách dùng của hai chữ MOST và ALMOST. Hai chữ này có giống nhau không, có thể thay MOST bằng ALMOST và ngược lại không?
BBT
MOST và ALMOST khác nhau. MOST là một tĩnh từ (ADJECTIVE), nghĩa là phần lớn, hầu hết. Có thể nói là 80 hay 90%. Thí dụ MOST PEOPLE IN VIETNAM SPEAK VIETNAMESE. Khoảng 10 đến 15% kia thì dùng các ngôn ngữ khác. Trong khi ALMOST là một trạng từ (ADVERB) được dùng để phụ nghĩa cho động từ, nói rõ hơn về động từ ấy. ALMOST nghĩa là gần, gần như, cùng nhĩa với NEARLY hay VERY CLOSE.
Thời gian giữa tháng BA thì chưa phải mùa xuân nhưng mùa xuân cũng đã gần đến thì chúng ta dùng ALMOST. Thí dụ IT IS ALMOST SPRING. QA cho nghe một câu với MOST và một câu với ALMOST rồi sau đó đến lượt Thúy.
QA
MOST MONEY IS FOR THE FOOD.
MY SON IS ALMOST 25 YEAR OLD NOW.
LÃM THÚY
MOST CHILDREN LIKE CANDIES.
HE WAS ALMOST LATE FOR SCHOOL.
QUỲNH ANH
Cám ơn ông thầy, chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến đây xin tạm chấm dứt. Chương trình sẽ trở lại vào tuần tới trên đài Hồn Việt Television. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin chào tạm biệt quí vị và hẹn gặp lại trong chương trình tới.