November 16, 2011

November 18, 2011

Ngày 14 tháng 10 năm 2011

Bạn ta,

Ông Tú Xương có thể là một tay tài tử, lịch lãm chuyện đời nhưng đối với bà nhà, ông là một người đàn ông vô tích sự, thái vô ích như ông đã nhận.

Ông nhận là ông ăn lương vợ, tức là được vợ nuôi. Thưng đấu nhờ tay bà Tú, để mặc bà Tú thân cò lặn lội bờ sông… ông thì nay hàng Thao, mai phố Giấy, mấy ngón xuyên tâm, lạc nhạn ông đều sành, đều giỏi. Bà đẻ cho ông mấy ông con trai tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành, giá ông không khai ra, chẳng ai biết. Bà Tú cũng là con gái nhà dòng (dõi), nhưng lấy chồng kẻ chợ, tiếng có, miếng không. Có lần ông phải nhận là ông ăn ở bạc có chồng (như ông), hờ hững cũng như không.

Mà ông Tú, thực ra không phải là trường hợp duy nhất. Một người đàn ông khác cả nước Việt Nam coi là vĩ nhân, một nhà đại cách mạng hy sinh mọi thứ trên đời để cứu nước, cũng lại là một người đối với vợ không được tốt lắm.

Ðó là cụ Phan , ông già bến Ngự như chúng ta vẫn gọi một cách yêu quí.

Cụ Phan chữ nghĩa đầy mình, thủ khoa thi Hương năm Canh Tí, viết lách sách đầy một kho, vậy mà cụ chẳng nhắc (các) cụ bà một câu trong những cuốn sách cụ viết. Người ta chỉ biết cụ ông lập gia đình hai lần, một lần đầu năm cụ 22 tuổi với bà Thái Thị Huyên hơn cụ 3 tuổi. Vì cụ bà chậm có con, cụ Phan lập gia đình một lần nữa với bà Nguyễn Thị Em . Về sau, cả hai bà đều sinh con trai cho cụ.

Rồi cụ ông ra đi biền biệt để lo chuyện cứu nước. Năm 1905, cụ Phan làm giấy li dị cả hai cụ chánh thất và thứ thất để khỏi gây phiền toái cho gia đình. Hai cụ bà có chồng mà như góa, sống cạnh nhau cho đến lúc chết, trước cụ ông có vài năm.

Cuối năm 1925 khi cụ Phan bị người Pháp giải từ Hà Nội vào Huế, ngang qua Nghệ An, chỉ có một mình cụ bà chánh thất Thái Thị Huyên được đến gặp cụ ông được chừng nửa tiếng đồng hồ.

Các sách vở viết về cụ Phan không đưa ra được thêm chi tiết nào khác về hai cụ bà. Cháu nội của cụ là Phan Thiệu Cơ cũng không có được bức ảnh nào của hai cụ bà. Thế là hai người đàn bà với những đóng góp không nhỏ cho cuộc đời cách mạng của cụ ông ngày nay không ai biết được bao nhiêu.

Phải chi mà bà Tú Xương, người con gái họ Phạm ở Lương Ðường, Hải Dương, thuộc một gia đình có nhiều người khoa bảng mấy đời, chịu khó ngồi xuống viết lại hồi ký đời mình, in ra cho người sau biết thì hay biết mấy. Rồi hai cụ Thái Thị Huyên, Nguyễn Thị Em, chánh thất và thứ thất của cụ Phan Bội Châu viết ra hai tập hồi ký thì người Việt chúng ta ngày nay đã có thêm được những tài liệu quí giá về sự nghiệp cách mạng của cụ Phan.

Các cụ đều đã không làm chuyện đó. Cũng chẳng viết lại dăm ba điều cho các con các cháu đọc với nhau (trong bếp) để biết về chuyện tình của các cụ, những hy sinh của các cụ bà, những đóng góp của hai cụ cho sự nghiệp cứu nước của cụ Phan và cho văn chương của ông Tú.

Hồi ấy, nếu các cụ bà viết xuống, đem xuất bản, lại tổ chức ra mắt sách dềnh dang, kêu gọi các cụ bạn buôn bán ở mom sông, ở bến sông Nam Ðịnh, hoặc các cụ ở cùng quê ra Hà Nội hay ra Huế tổ chức ra mắt sách, nhờ vài ba diễn giả khác lên nói về công lênh, sự nghiệp, nhan sắc của các cụ, viết báo khen các cụ đẹp (?) nhặng xị lên để cho buổi ra mắt sách thêm xôm tụ, lại thêm màn tặng hoa cho các tác giả (?), kèm trò phụ diễn vài ba bài hát nói cho các cụ ông gõ trống trầu tong tong rồi đến lượt các tác giả lên giả bộ khiêm tốn rằng nào có muốn viết bao giờ đâu, chuyện ra mắt cũng là vì mấy cụ buôn bán ở mom sông bầy vẽ ra nên phải miễn cưỡng làm một buổi ra mắt sách đấy chư vân vân và vân vân.

Nhưng có thể các cụ khiêm tốn thật nên chỉ nhiều lắm là kể chuyện đời cho mấy người con nghe ở trong bếp mà thôi nên mới không có hồi ký.

Cụ Phan , đến lúc cuối đời mới nói với các con biết về cụ thứ thất Nguyễn Thị Em và ghi lại trong đôi câu đối:

Có chồng mà ở góa, mấy chục năm tròn, ơn trời gặp hội đoàn viên, vội bỏ đi đâu, trao gánh nặng về phần chị cả.

Vì nước phải liều mình, biết bao bạn cũ, cõi Phật đưa lời trân trọng, thiêng thời phải gắng, chung lòng hăng hái với thầy tôi.

Chuyện hai cụ bà hy sinh hạnh phúc để cụ ông rảnh tay lo việc lớn đã được cụ ông kể rằng hai cụ chánh và thứ thất đều biết nhưng chưa từng hé răng một lời. Khi gặp cụ ông ở Nghệ An được nửa tiếng, cụ chánh thất chỉ nói: "Vợ chồng ly biệt nhau hơn hai mươi năm, nay chỉ được một lần giáp mặt Thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ trông mong Thầy giữ được lòng Thầy như xưa. Thầy làm những việc gì mặc Thầy, Thầy đừng phiền nghĩ tới vợ con." Khi cụ chánh thất qua đời ngày 21 tháng 5 năm 1936, cụ Phan làm đôi câu đối này để khóc cụ bà:

Tình cờ động khách năm châu, hơn ba mươi năm chồng có như không, cố đứng vững mới ghê, nuốt đắng ngậm cay tròn đạo mẹ.

Khen khéo giữ gìn bốn đức, gần bẩy mươi tuổi sống đau hơn thác, thôi về mau cho khỏe, đền công trả nợ nặng vai con.

Cả ba người đàn bà kể trên đều là nhứng phụ nữ phi thường, và ai cũng biết điều đó, mà cả ba người đều không thèm viết hồi ký để ra mắt sách bao giờ cả.

Có lẽ người xưa in sách khó hơn bây giờ chăng? Hay là tại các cụ có quá nhiều khiêm tốn? Trong khi những hy sinh của các cụ thì to lớn biết là bao!

Mà như thế thì ra mắt sách, viềt hồi ký làm quái gì.

Tôi nhớ một câu của Andy Warhol: Everyone is entitled to be world famous for 15 minutes. Ai cũng có quyền nổi tiếng trong 15 phút.

Mà 15 phút cũng rất cần thiết với một số người.

Hay vì cụ ông có lần dẫn hai câu thơ của Tùy Viên, một nhà thơ văn chương lỗi lạc của Hàn Lâm Viện Thanh triều : "Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch / lập thân tối hạ thị văn chương "(Công ở non sông duy trúc bạch / thân nhờ bút mực quá hèn trai) rồi các cụ bà bỏ không thèm viết hồi ký, làm văn chương nữa?


Ngày 15 tháng 11 năm 2011

Bạn ta,

Tuy đứng cùng một phe với Mussolini trong những năm đệ nhị thế chiến, nhưng không bao giờ Hitler dành cho Mussolini và nước Ý của ông trùm Phát Xít này một chút nể trọng nào.

Nước Ý của Mussolini, theo Hitler, có quyển sách mỏng nhất thế giới trong đó ghi tên các anh hùng, dũng tướng, trong khi quyển sách dầy nhất thế giới, lại là cuốn sách ghi những chuyện tình ái của người Ý, đàn ông cũng như đàn bà. Theo Hitler, mấy cậu người Ý chỉ giỏi chuyện trai gái, đến lúc ra trận thì dở ẹc, dở nhất thế giới.

Nhưng Hitler thực ra cũng không ngoa ngôn quá lắm khi nói như thế. Người Ý quả là có huê tình, có phong nguyệt thật. Bé nứt mắt ra mà đã giỏi thì như Romeo và Juliet. Già mà vẫn đại phong tình thì như Giovanni Giacomo Casanova De Seingalt.

Trò phong tình của người Ý còn lan sang cả những thứ trên người của họ: thời trang, quần áo, xe hơi... Tất cả những thứ cần thiết để phục vụ đời sống tình ái, người Ý đều giỏi. Các studio nổi tiếng nhất thế giới về vẽ kiểu quần áo, ca vát, đồng hồ, xe thể thao đều ở nước Ý. Các hãng Ford và Volkswagen đều đã phải nhờ studio Ghia của Ý vẽ kiểu xe Mustang và Karman chẳng hạn.

Thế thì người Ý chắc phải giỏi trò tán nhau lắm. Không thế mà bao nhiêu phụ nữ Mỹ phải lũ lượt đi sang Ý cho đàn ông Ý cấu đít ở ngoài đường, trên xe bus, xe điện... cho bõ những ngày cơ cực.

Nhưng có thể nào nước Ý ngày nay đang trên đà đi xuống sau những lúc hưng thịnh nhất về tình ái đó chăng? Có thể nào trò huê tình của người Ý cũng cùng một số phận tàn phai, sụp đổ tan tành như đế quốc La Mã sau khi đã lên đến tột đỉnh của văn minh không?

Người ta có thể nghĩ vậy khi biết là ở La Mã hiện nay, rất nhiều đàn ông đang phải ghi tên, đóng tiền đi học những lớp dậy tán tỉnh, quyến rũ, rù quyến phụ nữ. Học phí cho một khóa hai ngày là 400 ngàn Lira, tương đương với gần hai trăm đô la Mỹ và trường dậy đã có khá nhiều học viên đủ mọi loại tuổi, từ 19 đến 60 tuổi, nhưng hầu hết là hạng tuổi ba mươi, bốn mươi.

Các học viên được dậy những gì thì bản tin tôi đọc được của Reuters không nói rõ. Lớp sẽ do các giảng viên như thế nào phụ trách, giờ thực tập các học viên sẽ phải làm gì, và có bài tập làm ở nhà (homework) không, và bài tập đó là gì?

Ðó là những điều nhiều người muốn biết, mà không biết hỏi ai, chẳng lẽ ném ra hai trăm Mỹ kim để thỏa mãn tính tò mò. Nhưng bản tin có thể làm cho nhiều người cảm thấy tự tin hơn. Giỏi có tiếng như người Ý mà cũng còn phải đi học huống chi mình. Có bị ngúng nguẩy, xí, nguýt cho một cái thật dài, rồi bỏ đi thì cũng chẳng sao. Tắt đèn làm lại cho đến khi một tay túm được tóc, tay kia vác cái chầy vồ, kéo về hang đá là xong.

Seduction, là môn dậy của các lớp học này. Seduction không chỉ là tán tỉnh (court), mà còn tiến xa hơn thế nữa. Tán tỉnh là mới đứng ở bờ suối, chờ con hươu đến uống nước để bắn và trong khi chờ đợi, thì thả lời ong bướm, khen chị rằng chị có đôi chân ít lông, tóc dính mỡ lợn trông đẹp ác, cái mũi đeo cục xương xuyên giữa hai lỗ mũi trông sexy chết được. Trò này đã có từ thời đồ đá khi tổ tiên chúng ta vừa rời những cái ổ trên cây bước xuống đồng bằng săn bắn, kéo nhau vào hang đá để ở. Mấy chục ngàn năm trước là như thế.

Bây giờ có hơi khác một chút.

Cái chầy vồ không còn lúc nào cũng vác theo nữa. Và thay vì túm tóc kéo về, thì mời leo lên cái SUV. Thay vì quăng về phía góc hang đá nàng đang ngồi miếng thịt hươu còn rỏ máu vừa cắt bằng cục đá lửa có cạnh sắc, thì trước mặt là miếng filet mignon, hai ly đỏ, tiếng vĩ cầm bài Fascination...

Chắc mấy lớp học ở La Mã dậy cũng bài bản như vậy là cùng. Carlo Della Torre, một trong những giảng viên của lớp học này nói rằng seduction dựa trên khung cảnh khoảng 60%, dựa trên đương sự làm công việc tán tỉnh quyến rũ khoảng 30% và đối tượng chỉ 10%. Như vậy, khung cảnh quan trọng nhất. Không thể giữa trưa nắng lôi nàng vào quán hủ tiếu, gọi bình trà Hai Con Cua, đánh vật với cái dầu cháo quẩy vừa dai vừa nhạt thếch rồi, cầm tay nàng mà tỏ tình được. Ít ra cũng phải cái quán ngó xuống biển đêm lấp lánh bạc, tiếng sóng vỗ trong kè đá, thoảng chút gió lùa qua những chiếc cửa kính ở bờ biển La Jolla hay gần cầu Kim Môn ở Cựu Kim Sơn...

Còn 30% kia thì phải sạch sẽ một chút, đừng có hà tiện nước hai ba tuần mới tắm một lần, tóc tai như mấy anh Cro Magnon trong hang mới bò ra.

Còn 10% kia thì cứ là Cindy Crawford, là Sharon Stone, là Củng Lợi là được.

Ôi nếu như thế thì cớ gì phải sang tận nước Ý, chi hai trăm đôla mà làm gì? Cứ làm đúng vài ba điều ở trên là đứa nào cũng chết. Hay tại đàn bà Ý hồi này quá khó chịu nên mới cần phải một khóa học như thế? Hay là những cú cấu đít của đàn ông Ý không còn ăn khách nữa?


Ngày 16 tháng 11 năm 2011

Bạn ta,

Trong một số Playboy, tôi đọc được một câu có thể dùng để phá tan tất cả các bức tường băng bất kể bề dầy ở mức độ nào, hữu hiệu còn hơn cả những chiến lược mà Tây phương đã dùng để kéo sập bức tường Berlin, chấm dứt giai đoạn chiến tranh lạnh hồi cuối thập niên 80.

Nhân vật chính trong truyện ngắn, tôi nhớ hình như là của John Updike, có một cách làm quen, bắt chuyện lần nào cũng thành công, mà lần nào chàng cũng chỉ dùng có câu: You smell so good... what is it?

Giản dị hết sức. Nửa đầu khen một cái đã. Nửa sau bắt đương sự phải trả lời, để sau đó, đẩy đưa câu chuyện. Mà thường thì đương sự trả lời ngay. Lý do là vì vừa được khen, đang còn sung sướng chết ngất, bị hỏi thêm một câu về cái nguyên do làm phát sinh ra lời khen đó thì phải trả lời chứ: Cô/ bà thơm lắm... mùi gì vậy?

Câu trả lời là cái tên của loại nước hoa. Aria, hay Contradiction, hay Allure... Rồi sau đó, là những chuyện khác nữa cứ từ tốn kéo ra. Lần nào nhân vật trong truyện ngắn đó của Updike cũng thành công rực rỡ.

Nhưng bây giờ, có thể lối khai mở đó sẽ không còn thành công nữa.

Khen thơm phức thì được. Nhưng hỏi mùi gì thì chưa chắc đã được trả lời. Nếu đó là thứ nước hoa không bán ở ngoài tiệm, nếu đó là thứ nước hoa được pha chế riêng cho người đang xức nó. Người bị hỏi có thể sẽ quay lại quăng ra mấy câu hỏi liên tiếp: Tại sao muốn biết? Biết làm gì? Muốn mua hả? Mua cho ai? Không nói được.

Cuộc đối thoại chấm dứt. Nhân vật của John Updike sẽ cứng họng, chịu thua không sao cứu vãn được tình hình.

Và nếu người có mùi nước hoa kỳ lạ đó muốn chia xẻ cái mùi được đặc biệt pha chế riêng cho nàng, nàng sẽ phải viết xuống giấy, ký tên cho phép như một tác giả bảo vệ tác quyền của mình, thì người kia mới mua được. Những chi tiết quái đản này tôi vừa được biết khi đọc được trong Internet một bài viết về những loại nước hoa được pha chế riêng đang được nhiều khách hàng chiếu cố.

Xức một mùi nước hoa mà được nhận ra cũng có thể sung sướng lắm chứ. Như trong phim Scent Of A Woman, đoạn Al Pacino trong vai đại tá khiếm thị Frank Slade ngửi và nhận ra, nói đúng tên của mùi nước hoa người phụ nữ trẻ lần đầu tiên ông gặp trong quán ăn. Nhưng trong một sở làm, ba bốn chị một hôm cùng rú lên vì thấy mấy chị kia cũng dùng một thứ nước hoa mua ở Nordstrom như mình thì không có gì vui hết. Và đó là lý do phải đi kiếm một mùi đặc biệt không ai có cho khỏi tức cái...mình.

Các phụ nữ có vẻ rất đồng ý với chuyện này, và công việc làm ăn của Sarah Horowitz, pha chế những mùi nước hoa theo yêu cầu của khách hàng, có chiều hướng đi lên. Nhưng với những cái giá khá cao, khoảng gần $300 cho mỗi 1/4 ounce perfume oil, người ta chưa thấy được cái ngày ai cũng một mùi riêng như tiên đoán của Internet.

Những người đàn ông có hai ba nơi để tặng nước hoa sẽ gặp vất vả. Mỗi nơi một mùi riêng có thể gây đủ mọi thứ phiền nhiễu cho các chàng. Không thể gửi hai ba nơi đó cùng một mùi, mùi Dona Karan trong cái chai rất kiểu cọ chẳng hạn. Hai ba cái nơi ấy sẽ đòi mỗi nơi một mùi thì phiền lắm. Làm sao hết cái mùi vừa chia tay ý thức hệ ở ga xe điện ngầm khi đến gặp cái mùi thứ nhì? Mà phụ nữ mũi tốt hơn đàn ông rất nhiều, đã tốt lại còn được chống đỡ bằng những miếng plastic thì phân biệt mùi chắc phải giỏi hơn. Lập tức chàng sẽ bị quay như ông Clinton bị hạch về Monica. Không thể cứ vung ngón tay, chối bay chối biến như ông Clinton được.

Vậy thì phải làm gì để thoát hiểm?

Vạn ứng Nhị Thiên dầu. Chai dầu Nhị Thiên Ðường chứ còn gì nữa. Vừa đánh át được cái mùi kia, vừa gây được thương cảm cho một người vừa trúng phải cơn gió độc, như bài học tôi học được của một trong những cha đẻ của nền ngoại giao Việt Nam, đại sứ P.Ð.L. lúc sinh thời mà tôi rất yêu quí.

Nhưng chai dầu này có thể sẽ bị dẹp, như tổng thống Nga Vladimir Putin đang tìm cách để ngăn không cho Hoa kỳ thiết lập một hệ thống phòng thủ chống phi đạn vậy. Lúc ấy, quần áo sực nức mùi phở lại là an toàn nhất...


Ngày 17 tháng 11 năm 2011

Bạn ta,

Cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt của Trung Tâm Từ Ðiển Ngôn Ngữ xuất bản năm 1992 ở Hà Nội có những cách định nghĩa rất kỳ cục, lại thêm rất nhiều sai sót, làm khó chịu những người khi có việc phải dùng tới nó.

Nhưng cũng có những trường hợp định nghĩa không kỳ cục, không sai, nhưng hết sức là tức cười. Tức cười vì người soạn từ điển không theo một lối, một qui ước về định nghĩa nào.

Thí dụ về những giống thú, khi định nghĩa, thì phải cho biết nó thuộc về họ nào, những chi tiết về tầm vóc, cách sinh hoạt vân vân. Ðịnh nghĩa về hổ thì phải cho biết nó họ mèo, cao bao nhiêu, thân dài bao nhiêu, sống ở đâu, những vùng nào, sống thành bầy như sư tử hay sống một mình, kiếm ăn như thế nào, hiện đang bị đe dọa và có thể bị tuyệt chủng hay không vân vân.

Hôm trước, cần định nghĩa về loài sâm cầm, tôi dùng cuốn tự điển này thì được đọc một định nghĩa chưa bao giờ thấy trước đây ở bất cứ một cuốn tự điển nào.

Một định nghĩa bình thường thì có thể sẽ như thế này: chim sống ở ao, sông, hồ thuộc họ vịt; chim trống sải cánh có thể tới 60cm chim mái nhỏ hơn, ăn tạp, ưa nước, không thuận khí hậu lạnh vân vân.

Nhưng ở trang 839, người ta đọc được những giòng nguyên văn như thế này để giải thích hai chữ sâm cầm: chim sống ở nước, lông đen, mỏ trắng, sống ở phương Bắc, trú đông ở phương Nam, thịt ngon và thơm.

Nhà làm từ điển trong khi không cho biết những chi tiết như kích thước, tầm vóc, cách sinh hoạt để người đọc có được một hình ảnh rõ hơn về giống chim này thì lại cung cấp những chi tiết hoàn toàn không cần thiết và thích hợp. Những chi tiết không cần thiết và không thích hợp trong định nghĩa của sâm cầm là "thịt ngon và thơm".

Ðang mô tả, đang định nghĩa loài chim thấy khá nhiều ở Hồ Tây ngoại thành Hà Nội, chàng lôi tắp nó xuống bếp cắt tiết, đánh đĩa tiết canh, thịt thì luộc, cổ cánh đem băm nấu canh. Nên chua thêm "thịt ngon và thơm" vào định nghĩa.

Làm từ điển mà tham ăn như vậy thì xấu quá. Mà nhà làm từ điển này lại là người rất hay ăn. Cái tật hay ăn của chàng được thấy khá nhiều lần trong cuốn từ điển. Thí dụ chàng định nghĩa gà đồng: ếch, nói về mặt thịt ăn được và ngon (trang 370). Hay rươi: giun đất, thân có nhiều tơ nhỏ, sinh theo mùa, ở vùng nước lợ, có thể ăn được(trang 827). Hay ếch: loài ếch nhái không đuôi, thân ngắn, da trơn sống ở ao đầm, thịt ăn được (trang 367). Hay trứng lộn: trứng vịt, trứng gà đã ấp dở, bắt đầu thành hình con, dùng để luộc làm món ăn (trang 1037). Hay măng: mầm tre, vầu non mới mọc từ gốc lên, có thể dùng làm thức ăn (trang 614). Hay mực: động vật ở biển, thân mềm, chân ở đầu và có hình tua, có túi chứa chất lỏng đen như mực, thịt ăn được (trang 648). Hay thỏ: thú gậm nhấm, tai to và dài, lông dầy mượt, nuôi để lấy thịt và lông (trang 929). Hay mướp: cây trồng thân leo, hoa đơn tính mầu vàng, quả dài, dùng làm thức ăn (trang 649) và cùng trang, dưới 5 giòng, là mướp đắng... cũng dùng làm thức ăn...

Như thế, bất cứ gì, thực vật hay động vật, cứ ăn được là chàng cẩn thận ghi vào từ điển: ăn được, dùng để ăn, ăn ngon...

Những chữ kể trên (chưa có thì giờ tìm hết nhưng chắc phải còn nhiều) khi dùng Việt Nam Tự Ðiển của hội Khai Trí Tiến Ðức hay Việt Nam Tự Ðiển của Lê Văn Ðức và Lê Ngọc Trụ, người ta không thấy cái ám ảnh ăn uống như trong cuốn Từ Ðiển Tiếng Việt của Trung Tâm Từ Ðiển Ngôn Ngữ. Nếu có thêm chi tiết ăn được hay không, thì cũng là rất ít. Không nhiều như nhà làm từ điển tham ăn của Hà Nội.

Có phải vì những cuốn tự điển kia được soạn trong lúc các nhà làm tự điển được ăn uống tử tế và đầy đủ không?

Khi đói, dứt khoát là không nên làm từ điển, và càng không nên làm thơ. Làm thơ lúc ấy, thơ sẽ thối dễ sợ. Ông Tố Hữu thì biết rõ điều đó lắm.


ANH NGỮ TRONG ÐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


(Bài số 120)

THE IMPERATIVE MOOD

Bản chuyển tả do Quỳnh Anh thực hiện. Bài học số 120 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 2 năm 2012.

QUỲNH ANH:

Ðây là chương trình Anh Ngữ Trong Ðời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.

Chương trình Anh Ngữ Trong Ðời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.

LÃM THÚY

Thúy muốn hỏi thầy IMPERATIVE MOOD là gì, có liên quan gì đến IMPERATIVE VERBS không?

BBT

IMPERATIVE MOOD là một trong BA CÁCH trong Anh ngữ (hai MOOD kia là IINDICATIVE MOOD và SUBJUNCTIVE MOOD) mà chúng ta dùng để ra lệnh, hay đưa ra một lời khuyên, hay một đề nghị, hoặc một lời mời, một chỉ dẫn. Vì thế, nếu gọi IMPERATIVE MOOD là MỆNH LỆNH CÁCH thì không hoàn toàn đúng. Lý do là vì IMPERATIVE MOOD không phải lúc nào cũng được dùng để ra lệnh.

Nhưng vì IMPERATIVE VERBS là những động từ chúng ta thường dùng để ra lệnh nên người ta cũng gọi chúng là BOSSY VERBS. BOSSY là do danh từ BOSS mà ra. BOSS là ông chủ, là cấp trên. Tĩnh từ BOSSY là hách dịch, có tính cách người trên đối với kẻ dưới. BOSSY VERBS là các động từ dùng để ra lệnh.

QA

Thưa anh, các động từ BOSSY VERBS này dùng như thế nào? Nó có các thì, tức là các TENSES như PAST, PRESENT, FUTURE, PERFECT và CONTINUOUS không?

BBT

IMPERATIVE MOOD không có những thì, những TENSES như QA vừa nói. Chúng ta không thể ra lệnh trong quá khứ được. Quá khứ đã qua, không ai có thể quay ngược lại thời gian để ra lệnh hay đưa ra những đề nghị, chỉ dẫn, yêu cầu trong quá khứ được. Thí dụ liên minh NATO không thể ra lệnh cho ông Qaddafi đầu hàng ngay sau cuộc biểu tình đầu tiên chống ông ta được vì nay ông đã chết rồi, quân nổi dậy đã bắn chết ông, và thời gian để có thể ra lệnh không còn nữa. Tuy nhiên, IMPERATIVE có thể hàm ý một mệnh lệnh hay một đề nghị trong tương lai. Thí dụ chúng ta có thể nói COME TO THE MEETING NEXT WEEK. Ðây là một gợi ý, một đề nghị cho tuần tới, nhưng mệnh lệnh, đề nghị vẫn là mệnh lệnh đưa ra vào lúc này, tức là thì hiện tại.

Dùng các động từ IMPERATIVE VERBS này như thế nào ư? Cứ dùng nguyên mẫu (INFINITIVE) của động từ , bỏ TO ở trước đi là chúng ta có ngay IMPERATIVE MOOD. Thí dụ HAVE SOME COFFEE WITH ME.

LÃM THÚY

Như vậy thì tất cả các động từ đều là IMPERATIVE VERBS có phải không thầy?

BBT

Không phải. Chỉ các động từ chỉ hành động mới có thể được dùng trong IMPERATIVE MOOD. Chỉ có các động từ chỉ ACTION mới có thể là các BOSSY VERBS hay IMPERATIVE VERBS mà thôi. Thí dụ các động từ như CAN, SHALL, MUST, MAY, WOULD, SHOULD … thì không là BOSSY VERBS. Chúng ta không thể ra lệnh cho người khác có khả năng này, có khả năng khác . Không thể nói CAN SPEAK JAPANESE là người ấy nói được tiếng Nhật ngay chẳng hạn.

QA

IMPERATIVE VERBS như vậy không có chủ từ đi ở trước phải không thưa anh?

BBT

Ðúng vậy. Thực ra, chủ từ nó là ngôi thứ hai, SECOND PERSON, nhưng chúng ta không nói ra. Chủ từ YOU bao giờ cũng được hiểu ngầm (IMPLIED). Thí dụ chúng ta không ra lệnh như thế này: YOU CLOSE THE DOOR, mà chỉ cần nói CLOSE THE DOOR là đủ, không cần chủ từ YOU nữa. Ðây là một mệnh lệnh chuyển thẳng cho người đang nói chuyện với chúng ta, người ấy đang đứng cạnh chúng ta, đang trực tiếp nghe chúng ta. Cũng có khi câu IMPERATIVE của chúng ta nói không là mệnh lệnh chi hết. Thúy cho nghe một câu IMPERATIVE không mang ý nghĩa mệnh lệnh coi.

LÃM THÚY

Thí dụ khi Thúy nói với khách ở tiệm rằng CALL THIS NUMBER TO ACTIVATE THE PHONE CARD thì đây không phải là mệnh lệnh. Ai dám ra lệnh cho khách bao giờ. Thúy chỉ đưa ra một lời chỉ dẫn (INSTRUCTION) về cách dùng tấm thẻ phone mà thôi.

QA

Có lần con gái QA nói như thế này với QA khi QA dùng computer của nó: MOVE THE ARROW TO THE ICON YOU WANT TO OPEN AND CLICK IT thì cũng không phải là một mệnh lệnh phải không thưa anh?

BBT

Nhưng cùng những câu như hai câu trên, nếu nói bằng một giọng khác thì chúng là mệnh lệnh ngay. Khi viết mà thêm dấu than (!) ở cuối câu thì đó cũng là cách để cho người đọc nhận ra là mệnh lệnh.

QA

Nhưng nếu muốn làm cho câu nhẹ đi, bớt vẻ người trên nói với người dưới, không còn ý nghĩa ra lệnh nữa thì chúng ta phải làm thế nào?

BBT

Chúng ta thêm PLEASE ở phía trước, hay phía sau câu cũng đều được. PLEASE SHUT THE DOOR hay SHUT THE DOOR PLEASE.

LÃM THÚY

Ở trên anh nói IMPERATIVE MOOD không có các thì PAST, PRESENT, FUTURE nhưng IMPERATIVE vẫn phải có NEGATIVE chứ thưa anh?

BBT

Ðúng là như thế. Muốn có nghĩa NEGATIVE, chúng ta đặt DO NOT hay DON’T ở đầu câu. Thúy cho nghe ba thí dụ với NEGATIVE FORM của IMPERATIVE coi.

LÃM THÚY

DO NOT CALL PEOPLE AFTER 10 PM.

DO NOT PUT SUGAR IN MY COFFEE.

DO NOT SEND CASH BY MAIL.

BBT

Và dĩ nhiên là nếu muốn cho lễ phép, nhẹ nhàng hơn thì chúng ta nói thế nào đây QA?

QA

Chúng ta thêm PLEASE ở đầu hay cuối câu để thành PLEASE DO NOT CALL PEOPLE AFTER 10 PM. PLEASE DO NOT PUT SUGAR IN MY COFFEE.

PLEASE DO NOT SEND CASH BY MAIL.

BBT

IMPERATIVE MOOD cũng được dùng để đưa ra những lời cảnh cáo, tức là WARNING. Thí dụ câu KEEP QUIET NOW! Tùy theo cách nhấn các chữ trong câu, nó có thể là một mệnh lệnh (ORDER) hay cũng có thể là một lời cảnh cáo (WARNING).

Nếu nhấn mạnh vào cả ba chữ KEEP , QUIET và NOW nhưng xuống giọng ở NOW thì đó là một mệnh lệnh.

Nếu nhấn cả ba chữ KEEP, QUIET và NOW, nhưng lên giọng ở chữ cuối, chữ NOW thì đó là một câu dùng để cảnh cáo.

QA

Thưa anh, WARNING và ADVICE có khác nhau không?

BBT

IMPERATIVE MOOD ngoài cách dùng để ra lệnh còn được dùng để cảnh cáo hay khuyên bảo. Khuyên bảo nhẹ hơn cảnh cáo. Không nghe theo lời cảnh cáo có thể gặp chuyện không tốt. Nhưng không làm theo lời khuyên bảo có khi cũng chẳng sao. QA cho nghe một câu với lời cảnh cáo và một câu với một lời khuyên coi.

QA

TURN OFF ALL APPLIANCES BEFORE GOING AWAY là WARNING.

WEAR A TIE FOR THE JOB INTERVIEW là ADVICE.

BBT

Cô Thúy cho nghe vài lời khuyên khác coi.

LÃM THÚY

DON’T DRINK AND DRIVE.

DON’T EAT TOO MUCH RED MEAT.

DO NOT TALK ABOUT IT ON THE PHONE.

BBT

Trong những câu đưa ra những lời khuyên ADVICE, chúng ta không cần phải nhấn mạnh từng chữ như những câu cảnh cáo WARNING và mệnh lệnh ORDER.

IMPERATIVE MOOD cũng được dùng để mời mọc như COME IN AND SIT DOWN. MAKE YOURSELF AT HOME. PLEASE START WITHOUT ME. HAVE A PIECE OF CAKE.

Khi muốn lời mời mọc nghe khẩn khoản hơn, chúng ta dùng DO ở trước động từ chính. QA cho nghe lại những câu mời mọc trên với một chút khẩn khoản và ân cần hơn coi.

QA

DO COME IN AND SIT DOWN.

DO MAKE YOURSELF AT HOME.

PLEASE DO START WITHOUT ME.

DO HAVE A PIECE OF CAKE.

LÃM THÚY

Thưa anh, khi đưa ra một đề nghị, hay một cảnh cáo mà muốn bao gồm luôn cả người nói tức là ngôi thứ nhất (FIRST PERSON) thì trong tiếng Anh nói như thế nào?

BBT

Cô hỏi một câu rất hay. Chút xíu nữa thì tôi quên. Chúng ta chỉ cần thêm LET US hay LET’S vào đầu câu là ngôi thứ nhất FIRST PERSON được bao gồm vào luôn.

TALK TO HIM thì không có tôi ở trong đề nghị. LET US TALK TO HIM thì có cả tôi. LET US hay LET’S nghĩa là CHÚNG TA HÃY CÙNG làm một việc gì đó.

QA

Thế còn nếu muốn nói CHÚNG TA HÃY ÐỪNG làm một điều gì đó thì câu IMPERATIVE sẽ như thế nào?

LÃM THÚY

Hình như Thúy biết. Thúy nghe mấy đứa con bảo nhau đừng đi xem một cuốn phim nọ như thế này: LET US NOT GO TO SEE THAT FILM.

Nhưng thưa anh, có thể nói như thế này không… DON’T LET US GO TO SEE THAT FILM…

BBT

Không. Vì ý nghĩa sẽ hoàn toàn khác. LET’S NOT SEE THAT FILM là CHÚNG TA HÃY ÐỪNG đi xem cuốn phim đó.

DON’T LET US SEE THAT FILM là HÃY ÐỪNG ÐỂ CHÚNG TÔI xem cuốn phim đó.

QA

Thưa anh, hồi nẫy anh nói chỉ các động từ chỉ hành động mới có thể dùng trong IMPERATIVE MOOD. Vậy thì động từ TO BE có dùng trong các câu mệnh lệnh, đềnghị không?

BBT

Ðược chứ. Thí dụ khi nói BE HONEST WITH ME chẳng hạn. BE HONEST WITH ME là hãy thành thật với tôi, thì khi làm công việc thành thật đó, ngôi thứ hai, SECOND PERSON phải có một số hành động như nói thật, can đảm, không che dấu bất cứ một điều gì… Làm bằng ấy điều thì cũng là những hành động bao gồm trong động từ TO BE HONEST chứ còn gì nữa?

Vậy thì cô QA thử đưa ra vài thí dụ với TO BE trong IMPERATIVE MOOD coi.

QA

BE KIND TO YOURSELF.

ALWAYS BE SUPPORTIVE TO YOUR CHILDREN.

NEVER BE SORRY FOR THE PAST.

DON’T BE TOO HARD TO YOURSELF.

Thưa quí vị, chương trình Anh Ngữ Trong Ðời Sống Hàng Ngày đến đây xin tạm chấm dứt. Chương trình sẽ trở lại vào tuần tới cùng với các chương trình khác của Hồn Việt Television. Bùi Bảo Trúc , Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin chào tạm biệt quí vị và hẹn gặp lại trong chương trình tới.