February 27, 2012

February 24, 2012

Ngày 21 tháng 2 năm 2012

Bạn ta,

Tờ Time cách đây ít lâu có một bài viết của Richard Stengel về cuốn You're Too Kind: A Brief History of Flattery của chính ông trong hình thức của một bài essay, một bài đọc rất thú vị.

Flattery là chữ người Anh mượn của người Pháp: flatterie, do động từ flatter nghĩa là vuốt ve, làm vui thích, nịnh hót, bợ đỡ, xưng tụng. André Maurois trong cuốn Lettres à L'Inconnue thì gọi đó là cách làm đẹp lòng người (lá thư số 32). Ở cuối lá thư, Maurois nói thẳng: làm đẹp lòng người là một cái đức.

Bernard Shaw, kịch tác gia người Anh thì nói rằng đàn bà đợi lời tán tụng của đàn ông cũng như con nhện đợi con ruồi vậy. Mà nhện thì rất thích ruồi.

Người ta ai cũng thích được vuốt ve bằng lời nói, tán tụng, nịnh bợ, xưng tụng, nhưng Stengel cho rằng chúng ta ngày nay đã làm mất cái nghệ thuật làm đẹp lòng người, biến nó thành những câu nói rẻ tiền, thiếu hẳn công hiệu. Ngôn ngữ chúng ta dùng trong khi làm công việc xưng tụng, vuốt ve đó đã mỏi mệt, đã quá cũ, đã trở thành giả dối vì thiếu rất nhiều chất sáng tạo. Trong khi người ta thì lại rất cần những câu như vậy. Jean Jacques Rousseau có lần viết rằng con người dã man, sơ khai thì chỉ sống với mình trong khi con người sinh vật của xã hội thì chỉ biết sống với những ý kiến của người khác.

Khen ngợi, xưng tụng cũng là một cách rất hữu hiệu để dậy dỗ, như Robert Smith Surtees, một tiểu thuyết gia người Anh đã viết: nhiều người được tán tụng rồi sống đạo hạnh hơn là số người bị buộc phải từ bỏ tội lỗi của mình bằng những biện pháp mạnh. Điều này thấy rõ nhất trong lúc dậy trẻ.

Richard Stengel trong cuốn sách của ông, có đưa ra một số những gợi ý mà độc giả có thể đem dùng để tán cho thành công. Một số đề nghị nghe được, nhưng đề nghị thứ hai của ông có thể sẽ không thành công mặc dù ông cho rằng cách này là viên đạn bằng bạc trong kỹ thuật tán tỉnh, nghĩa là hay lắm: Praise the beautiful for their intelligence, and the intelligent for their beauty. Hãy ca ngợi những người đàn bà đẹp về trí thông minh của họ, và ca ngợi những người đàn bà thông minh về vẻ đẹp của họ.

Sai bét. Phụ nữ chỉ thích được khen đẹp. Đã đẹp thì càng muốn được khen đẹp. Lỡ không đẹp cũng thích được khen đẹp. Càng không đẹp, càng muốn được khen là đẹp. Nếu cần phải cầm dao kề cổ dọa giết để được khen đẹp thì cũng vẫn phải làm như thường.

Tưởng tượng đứng trước Cindy Crawford, cứ tán tụng nét thông minh của nàng thì sẽ không đi đến đâu hết. Được mời ngồi lên chiếc Rolls Royce, cứ xuýt xoa khen cái radio thì khó có thể được mời đi Rolls Royce một lần nữa trong tương lai. Khen kiểu ấy thì có khác gì sau bữa ăn mà gia chủ mất nguyên một buổi để nấu, chỉ tằng hắng khen nước mắm và ớt ngon không? Hay là khen cái khung của bức sơn dầu rất đẹp cho họa sĩ... vui lòng?

Kiểu khen ngợi, xưng tụng đó nếu không vụng về thì phải gọi là đểu.

Khen người đẹp về đầu óc của nàng là không thèm ngó gì đến nàng. Một người mất hai tiếng đồng hồ để sơn bộ móng tay sau khi đã đánh, rồi chùi đi hai ba mầu, thay gần một chục chiếc áo, chải hai kiểu đầu khác nhau rồi mới quyết định được một kiểu để đi chơi, và người kia đến bấm chuông, nàng ra cửa để nhận được một câu đại khái là "... úi giời sao mà thông minh quá vầy nè!" thì cái cửa phải đóng cái rầm trở lại vào mặt tức khắc.

Hay một người vừa thi xong bài trắc nghiệm thương số thông minh (I.Q.) với số điểm trên 120 mà được khen là đẹp não nùng thì cũng hoàn toàn không được.

Kiểu khen ớt cay, nước mắm pha khéo, bia... ngon thì tương lai thấy rõ nhất là tiếp tục mì gói và TV dinner đến chết mà thôi.

Phải khôn hơn một chút chứ. Thí dụ ăn xong, phải khen lấy khen để đòn chả lụa... sao mà khéo đi chợ thế... tôi mua thì chẳng bao giờ ngon được thế này đâu... giỏi quá hà... con dao cắt miếng chả trông cũng quí phái làm sao...ối giời ơi, cái bình nước mắm sao mà xinh quá đi thôi...mì gói bạn nấu cũng ngon hơn mấy cha đàn ông bạn độc thân nhà nghề của tôi nữa đấy...

Khen hay nịnh mà như đề nghị của Richard Stengel thì sẽ không đi đến đâu ngoài cái cửa mở ra đường hết. Khen đường kim, mũi kéo của thẩm mỹ viện còn dễ nghe hơn là khen nàng thông minh, học nhanh, giỏi đại số và hình học nhất trường chẳng hạn.


Ngày 22 tháng 2 năm 2012

Bạn ta,

Nếu không đọc bài báo đăng trên tờ L.A. Times thì tôi không thể biết được là đời sống này lại có những bất công và bi thảm đến như thế.

Một người đàn ông trẻ tuổi ở Century City, California, cần tiền tiêu, nên đã phải bán tinh trùng của mình cho một phòng thí nghiệm. Một trong những đứa bé mà chàng giúp cho ra đời, bị di truyền bệnh thận của chàng, và tòa thượng thẩm ở California buộc chàng phải ra tòa để khai trước tòa về tình trạng sức khỏe của chàng.

Khía cạnh pháp lý là thuộc thẩm quyền tòa án, tôi không thể lạm bàn.

Nhưng những chi tiết khác của bài báo cho thấy ở nước Mỹ vẫn còn những bất công không biết đến bao giờ mới dẹp bỏ được. Đó là bất công mà những người đàn ông sẽ còn phải chịu trong một thời gian lâu dài nếu chiều hướng như hiện nay được để cho tiếp tục.

Người đàn ông này, theo những chi tiết của bài báo, trong thời gian từ năm 1986 đến năm 1991, đã tới phòng thí nghiệm bán tinh trùng của mình tất cả 320 lần, và được trả $11,200. Như vậy, làm một con tính nhỏ, người ta thấy ngay là mỗi lần, chàng được trả đúng $35.

Và chính đây là chi tiết cho thấy những bất công, bất bình đẳng ghê gớm ở nước Mỹ, sự rẻ rúng mà đàn ông trong xã hội tân tiến nhất thế giới vẫn tiếp tục bị gánh chịu. Đó là các phòng thí nghiệm, trong khi trả cho người đàn ông này, hồ sơ tại tòa gọi ông ta là Donor 276, tức là người hiến tinh trùng số 276, mỗi lần $35, thì phụ nữ được trả ít nhất là gấp một trăm lần như thế, và cao nhất có thể là gần ba ngàn lần như những quảng cáo tìm mua trứng các nữ sinh viên theo học tại các đại học danh tiếng.

Equal pay for equal work, chủ trương thù lao phải được trả ngang bằng cho cùng một thứ công việc của lao động Mỹ hoàn toàn không được tôn trọng trong trường hợp này. Người đàn ông này đã làm cùng một thứ việc, nhưng không hề được trả thù lao tương đương với các nữ sinh viên đại học của các trường Ivy League hàng đầu của nước Mỹ.

Bán vài chục ngàn con tinh trùng mà chỉ được có 35 Mỹ kim trong khi đó, với một quả trứng, hay cứ coi là vài quả đi, người bán trứng có thể được trả cả ngàn hay mấy chục ngàn Mỹ kim. Bất công không thể tả được.

Nhưng làm thế nào được, khi mà người mua đặt ra những cái giá khủng khiếp như vậy. Chính phủ không thể can thiệp, nhất là trong lúc nước Mỹ đang hô hào các nước phải khác trên thế giới phải thực hiện những cải cách kinh tế thị trường tự do.

Những người đàn ông Mỹ vẫn tiếp tục bị đối xử bất công như thế về mặt giá cả ngoài thị trường. Giá trung bình ở New York hiện nay là khoảng từ 50 đến 75 Mỹ kim cho mỗi lần mua bán như thế.

Đó là điểm bất công không biết làm sao giải quyết.

Điểm bi thảm của bài báo là chi tiết cho biết người đàn ông này vì cần tiền túi mà phải đi bán tinh trùng lấy tiền.

Pocket money, tiền túi, như bài báo cho biết, không phải là món tiền để thanh toán tiền nhà hàng tháng, hay trả tiền nợ xe, nợ credit card, mà là những chi tiêu lặt vặt như đổ xăng, mua tờ báo, đi xi nê, mời cô bạn đi chơi, đi ăn cuối tuần.

Người đàn ông này mỗi lần cần một số tiền nhỏ cho những chi tiêu kể trên, chàng liền ghé phòng thí nghiệm, đúng hơn là cái tinh tử khố, cái spermbank tên là California Cryobank, bán khoảng một hai muỗng (?), là lại rủng rỉnh tiền bạc ngay.

Trong thời gian 5 năm, vẫn theo bài báo, người đàn ông trẻ tuổi này tới Cryobank tất cả 320 lần. Như vậy, mỗi năm, chàng bán 64 lần. Mỗi tuần một lần, còn 12 lần kia có thể là để cho những món chi tiêu bất ngờ trong những dịp lễ lạc để mua quà cáp, hoa hồng cho cô bạn trong dịp Valentine, sinh nhật, Giáng Sinh, năm mới chẳng hạn. Những tuần lễ rơi vào những dịp lễ lạc đặc biệt như vậy thì chàng ghé tinh tử khố hai, ba lần là lại thành con người chi tiêu hào hoa rộng rãi ngay.

Nhưng những người được chàng mời đi ăn, đi uống, đãi đằng quà cáp có biết cách chàng kiếm tiền để chi cho những món quà hay những bữa ăn đó không?

Họ vẫn tin rằng chàng đem đồng lương chàng kiếm được bằng sức lao động của chàng? Nhưng nếu biết được rằng chàng đã kiếm được tiền bằng cách ấy, thì có ai còn muốn đi ăn đi chơi với chàng nữa không? Tưởng tượng đang ăn, chàng lẩm nhẩm tính lại số tiền có trong túi, và hốt hoảng vội vã xô ghế chạy ra cửa, thẳng tới Cryobank, lúc sau trở về bàn với cô bạn, tự tin trở lại bằng số tiền vừa nhận được của món hàng vừa bán.

Bi thảm vô cùng. Nhất là ngay liền sau bữa ăn, nàng đòi chàng đưa về phòng nghe... nhạc chẳng hạn. Lúc ấy còn gì là... nhạc (?) nữa mà nghe!


Ngày 23 tháng 2 năm 2012

Bạn ta,

Helen Gurley Brown là ai, làm gì, nàng là một nhà văn hay một tài tử, một chính khách hay một thương gia... tôi nghĩ tất cả những chi tiết trên đều không cần thiết.

Nhưng bạn nên đọc bài viết của Helen Gurley Brown trong tờ Newsweek. Bạn là người không thích nghe ai khuyên cả, nhưng lần này có thể bạn sẽ nghĩ khác sau khi đọc nàng. Nàng có một hai lời khuyên, mà tôi nghĩ bạn cũng có thể đem ra dùng được.

70 còn phải học 71 huống chi nàng không chỉ 71, mà là 78 như nàng cho biết ở ngay đoạn đầu của bài báo, và bạn thì chưa bao giờ 70 cả. Có nghe nàng khuyên vài câu thì cũng không sao đâu.

Lời khuyên ấy nằm ngay ở tựa bài báo: Don't Give Up on Sex After 60. Nàng không muốn bạn về … hưu sau năm 60.

Nàng 78 tuổi. Chồng nàng, David Brown, một nhà sản xuất điện ảnh, 83 tuổi. Vậy mà vừa mới tối hôm qua, họ vẫn còn làm chuyện đó: "I had sex last night". Đó là câu đầu của bài báo. Vậy mà bấy lâu nay tôi vẫn nghĩ là những người ở tuổi của họ, là đã thôi, đã rửa tay, đã gác kiếm, đã giải nghệ kiếm cung, đã quên hết mọi chuyện.

Nhưng hơn bạn và tôi mười mấy tuổi David Brown vẫn tiếp tục. Và Helen Gurley Brown, 78 tuổi, vẫn … còn.

Vậy mà chúng ta đang nói chuyện về hưu.

Theo Helen, phụ nữ (Helen cũng là phụ nữ, nên nàng rất có thẩm quyền để nói về chuyện này) vẫn tiếp tục không phải chỉ ở tuổi 40 và 50, mà còn tiếp tục cho đến tuổi 60 và 70 nữa.

Helen Gurley Brown 78 tuổi thì vừa mới tối hôm qua. Và nàng nói rằng phụ nữ như nàng -- 78 tuổi -- lại còn thắc mắc về chuyện đó hơn bất cứ lúc nào.

Helen viết một câu hay tuyệt nhưng đọc xong, tôi thắc mắc cả tuần nay đến nay vẫn còn thắc mắc. Helen viết rằng sex là một trong ba chuyện thú vị nhất trên đời nhưng hai cái kia thì nàng không biết là những cái gì -- Sex is one of the three best things there are, and I don't know what the other two are.

Hai thứ kia là gì?

Tại sao người đàn bà này không biết? Tại sao nàng ngưng ở đó, không chỉ thêm cho những người đàn ông sáng chỉ biết chơi ô chữ, tối đọc sách và nghe nhạc để những người này còn biết, để khi không có cái này, còn có hai cái kia. Hai cái kia không biết là những cái gì thì làm sao sống nổi.

Nhưng Helen Gurley Brown thì lại chỉ nói về sex. Theo nàng, sex giúp chúng ta tiếp tục liên hệ với loài người, tránh cho chúng ta trở thành những con người mặt mũi táo bón, khó khăn, ngột ngạt, dấm dẳn, khật khùng... Sex giúp bạn (?) thành một phụ nữ còn hoạt động được thay vì là một mụ đàn bà già đeo, khô héo quắt queo không có sex: It makes you a functioning female instead of a sexless old crone.

Những người phụ nữ sau tuổi 50 và 60, phải làm theo lời khuyên của Helen là ngày ngày phải tâm niệm câu thần chú nguyên văn như thế này: "I'm a sexual person; I want sex in my life; I deserve it, and I'm not gonna let it disappear." Tôi là một sinh vật tính dục; tôi muốn có sex trong đời sống; tôi xứng đáng được có sex; tôi sẽ không để cho sex bỏ tôi, biến khỏi đời sống này...

Rồi Helen Gurley Brown kê ra một số việc các nàng phải làm như phải xuất hiện với hình ảnh của một phụ nữ tài giỏi, lão luyện, đẹp, thích vui sống, tốt trong giường (good in bed) (?) và có tí tiền... nếu muốn hấp dẫn những người đàn ông trẻ.

Và khi xong việc (?), nhớ đi giật lùi ra khỏi phòng nếu nghĩ rằng phía trước (?) trông đỡ hơn phía sau (?) nhầu nhẹt, nhăn nhúm...

Toàn là những điều tôi chưa hề biết trong cuộc đời quá nửa thế kỷ này.

Bài báo mới được có một tuần nên chưa thể biết có bao nhiêu phụ nữ sẽ đọc lẩm bẩm câu thần chú Helen Gurley Brown mách nước đó. Nhưng từ nay, chúng ta nên lắng tai nghe kỹ hơn, biết đâu lại chẳng nghe thấy những điều khấn nguyện nào xứng đáng, nào quyết tâm không cho "nó" bỏ đi, biến mất khỏi cuộc đời... thì liệu nước mà chạy ngay không thì chỉ có từ chết đến trọng thương mất thôi.

Tất cả đều đọc thấy ở tờ Newsweek. Đọc Newsweek mấy chục năm nay thì cũng phải đọc được một số báo đọc được chứ!

Những độc giả trung thành mua dài hạn từ bao nhiêu lâu nay như tôi rất cần nó trong đời, xứng đáng để có nó và nhất định không để cho nó biến mất, ra đi khỏi cuộc đời này, tờ Newsweek yêu quí!


Ngày 24 tháng 2 năm 2012

Bạn ta,

Bill Robert ở Madison, Wisconsin là một người khôn khủng khiếp. Ông già 89 tuổi này vừa tổ chức cho chính ông một đám tang rất trọng thể.

Ông đi đầu, theo sau là quan tài có sáu người khiêng, sáu người bạn rất thân của ông, lại còn kèn trống không thiếu thứ gì.

Nhưng ý kiến tổ chức tang lễ cho mình thực ra không phải là của ông, mà là của Ginny O'Brien, một ca sĩ hát nhạc Jazz, bạn ông. Năm ngoái, khi được mời tới hát tại tang lễ của một người yêu nhạc Jazz, Ginny O'Brien nói với Bill Robert rằng thật là uổng vì người chết nằm đó, mà không nghe được những bản nhạc yêu mến lúc sinh thời. Bill Robert liền nẩy ra ý kiến cho ông được ngửi hoa phúng viếng chính mình. Chứ chờ đến lúc chết, nằm trong quan tài, làm sao ngửi được hoa bạn bè đến viếng. Ấy là chưa nói đến những lời lẽ tốt đẹp mà có thể suốt đời không bao giờ có hạnh phúc là được nghe của bạn bè nói về mình.

Ông mời khoảng vài trăm người tới dự đám tang của ông và nói rằng sau này, khi ông chết thật thì bạn bè khỏi phải phân ưu, phúng viếng gì nữa. Ông quả là người rất biết điều.

Thế là bạn bè kéo đến gặp ông, chúc ông chết vui vẻ, lên đường không vướng mắc. Nhạc Jazz được trình tấu suốt buổi, trong khi bạn bè, thân nhân lên lần lượt đến bên quan tài nói về ông, ca ngợi ông, kể ra toàn những điều hay và tốt về ông, cố tình bỏ đi những chi tiết không đẹp lắm. Ông nghe mà lịm người đi vì sung sướng. Có những điều tốt đẹp ông không hề làm, bạn bè thân quyến cứ đổ hết cho ông, ông nhận luôn, như ông đã chết thật và đang nằm trong quan tài vậy. Vả lại, bạn bè nói tốt thì mình cứ im mà nghe chứ cãi lại hay cải chính, người ta nói mình không chết thì sao tiện. Người ta mang hoa đến chất quanh quan tài của ông. Ông đến trước những vòng hoa phúng ông, cúi xuống ngửi đi ngửi lại. Cả những người không mấy ưa ông, cũng nói toàn những điều tốt về ông. Ông không phản đối gì hết. Ông ở lại cho đến lúc người khách cuối cùng ra về.

Ông thật là khôn. Mấy ai làm được như ông: ngửi được hoa phúng viếng, nghe được bao nhiêu điều tốt đẹp về mình, đến nỗi không nhận ra mình là người được nhắc, được đề cập trong những bài điếu văn bạn bè đọc trước quan tài mình nữa. Khác hẳn những người chết khác, không được nghe, nhìn, ngửi thấy những điều đẹp đẽ ấy. Những tiếc thương của vợ, con, gia đình cũng không được biết. Tiếc biết là chừng nào.

Đến như Đinh Hùng trong một lúc để cho trí tưởng tượng bay bổng nhất, thì cũng chỉ nghĩ khi nằm dưới mồ, mấy người em bé bỏng, những Sầu Hoài Thương Nữ, những Em Buồn Cố Kết, những Em Duyên Số, những Em Đau Thương... đứng xõa tóc, tay cầm hoa là cùng, dẫu cho vẫn còn "vị chút tình lưu luyến với nhau xưa..." Lúc ấy, họ Đinh đã ở dưới huyệt, các em có "về một buổi / ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi... ngậm ngùi in khóe mắt..." thì cũng là quá muộn. Phải còn đi đứng, bắt tay, bẹo má các em trong đám tang của mình mới được chứ. Cho nên ông già Bill Robert này vẫn là người khôn ngoan hơn cả.

Khi kể chuyện này cho một người bạn ở đây nghe, ông bạn của tôi nhún vai, có vẻ không phục ông già Bill Robert chút nào. Ông để tôi nói thêm về sáng kiến của ông già Bill Robert một lúc, mới chép miệng nói rằng tôi đúng là người chưa đi xem ra mắt sách, ra mắt thơ bao giờ.

Ông già Bill Robert, bạn tôi nói, đâu có làm được điều gì mới lạ. Ngửi hoa phúng viếng thì thiếu gì người đã làm rồi, mà lại còn trước ông từ rất lâu nữa chứ...


Ngày 25 tháng 2 năm 2012

Bạn ta,

Cuốn Đằng Sau Dinh Độc Lập in lần thứ hai của Nguyễn Duy Xi do nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin ở Hà Nội ấn hành là một cuốn sách chứa đựng rất nhiều điều không đúng. Thí dụ rất nhiều tên người và ngôn từ, cách ăn nói trong những đối thoại của họ chẳng hạn.

Nó được xếp vào loại tiểu thuyết như chính nhà xuất bản và tác giả đã ghi rõ ở bìa trước. Đọc ở trong, người ta thấy không có thư mục, hay những ghi chú về tài liệu tham khảo, nên nó phải là một sản phẩm của trí tưởng tượng, mặc dù các nhân vật của cuốn sách đều có những cái tên (nhiều khi viết sai) của những người có thật ngoài đời, của giai đoạn lịch sử vừa qua.

Người đọc cũng có những thắc mắc như khi đọc cuốn sách viết về Watergate của Bernstein và Woodward, ở đoạn Henry Kissinger rủ ông Nixon quì xuống đọc kinh trong một căn phòng ở tòa Bạch Ốc. Lúc ấy chỉ có hai người: ông Nixon và Kissinger. Ai trong hai người này kể chuyện đó cho Bernstein và Woodward? Ông Nixon thì không, Henry Kissinger lại càng không nữa. Vậy Bernstein và Woodward lấy đâu ra những chi tiết mà họ viết xuống trong cuốn sách của họ?

Những thắc mắc như thế được thấy đầy trong cuốn sách của Nguyễn Duy Xi. Người viết có được bao nhiêu tiếp xúc với những người có tên trong sách? Có thể nói chắc là không một người nào hết. Một số đã chết, hay không sống ở Việt Nam, mà nếu có sống ở Việt Nam, cũng không thể có chuyện những người này ngồi xuống nói lại ngọn ngành cho Nguyễn Duy Xi viết cuốn tiểu thuyết Đằng Sau Dinh Độc Lập.

Nhưng những chi tiết như thế không đáng kể và thắc mắc nữa, khi chính những người làm cuốn sách cũng đã nhận đó là sản phẩm của trí tưởng tượng.

Tuy thế, có một chữ ở trang 167 làm người đọc không nhịn được cười. Đó là chữ "thôi".

"Thôi" được dùng trong một cách người ta chỉ thấy ở trong ngôn từ của miền Bắc trước năm 1975. Sau năm 1975, chữ "thôi" và cách dùng ở miền Bắc mới xuống miền Nam và làm khó chịu những người nghe không ít.

Cách dùng ấy không thấy ghi trong Việt Nam Tự Điển của hội Khai Trí Tiến Đức cũng như Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức và Việt Nam Tân Tự Điển của Thanh Nghị.

Nhưng trong Từ Điển Tiếng Việt của trung tâm Từ Điển Ngôn Ngữ Hà Nội, Việt Nam, ấn bản 1992, ở trang 934 thì có ghi cách dùng đó và còn thêm cả vài ba thí dụ về cách dùng .

"Thôi", theo sách vừa dẫn, là trạng từ, "từ biểu thị ý nhấn mạnh sự miễn cưỡng đồng ý hoặc chấp nhận điều được nói đến vì người nói thấy cũng khó có ý kiến gì thêm được nữa."

Thực ra, thì lối dùng này đã có từ lâu, chẳng riêng gì miền Bắc. Nhưng khi dùng nó, sự chấp nhận chỉ là bắt buộc, không có gì tự ý, hài lòng hay mãn nguyện. Thí dụ nói "cuốn sách cũng được thôi," nghĩa là không được lắm, hay nói "cuốn sách cũng tạm thôi," thì cuốn sách không hay lắm. Ý nghĩa luôn luôn mang nét phủ định, chối bỏ, không chấp nhận, miền cưỡng. Nhưng cách dùng chữ "thôi" mang từ miền Bắc vào sau năm 1975 thì lại là cách dùng rất khác.

Nó được dùng với tĩnh từ "tốt", một cách dùng có thể nói là không hề có trước đây, ít nhất cũng là trong những năm trước 1954 ở miền Bắc.

Nhưng sau năm 1975, người ta bắt đầu nghe "cũng tốt thôi" rất nhiều từ những người miền Bắc vào.

Đã tốt rồi, tại sao phải thêm "thôi" ở cuối để cho cái tốt đó trở thành không tốt nữa, một cái gọi là tốt nhưng lại không hoàn toàn tốt, nhưng vẫn phải chấp nhận, coi là tốt, vui vẻ tiếp thu? Hay là cái tốt ấy không tốt nhưng không được phản đối vì phản đối thì có chuyện ngay?

Thí dụ trong đoạn đối thoại: "Đồng chí được đảng chọn đi chiến trường miền Nam". Đồng chí liền trả lời: "Cũng tốt thôi."

Như thế là chúng tôi không muốn, chúng tôi cóc muốn vác AK đi dép râu đội nón cối cho xấu trai chúng tôi đi, để làm bia đỡ đạn cho con các cậu Lê Duẩn Lê Diếc, Đỗ Mười Đỗ Miếc... Nhưng ấn vào tay chúng tôi thì chúng tôi phải nhận. Cãi là chúng tôi nát thây, tan xác. Phải cố mà vui với điều ấy. Nhưng không vui thật lòng nên chúng tôi tống thêm chữ "thôi" vào cuối câu cho bõ ghét.

Do đó mà "cũng tốt thôi." Nghe khó chịu vô cùng. Vậy mà không phải vậy.

Kiểu nói đó nhất định tôi không bao giờ nghe trong mấy chục năm sống ở miền Nam.

Nhưng ở trang 167 của cuốn Đằng Sau Dinh Độc Lập, tác giả Nguyễn Duy Xi cho ông Tư Mắt Kiếng tức là thủ tướng Trần Thiện Khiêm phang một câu xanh rờn khi nghe vợ (Đinh Thùy Yến) cho biết sắp đi ủy lạo gia đình binh sĩ ở miền tây bằng phi cơ riêng: "Ô-kê thôi!"

Sao lại "Ô-kê thôi!" ông Tư Mắt Kiếng mà ăn nói kiểu ấy bao giờ?

Bịa đặt, phét lác thì cũng vừa phải thôi. Chi tiết nhỏ như thế cũng viết láo viết lếu thì làm sao mà... "ô kê" được.

Chỉ "ô-kê thôi" thôi. Sách viết như vậy mà cũng tái bản được thì lạ thật. Hay là một lũ ngu dốt đọc nhau chăng?

Cũng tốt... thôi?


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


(Bài số 133)

PRESENT AND PAST PARTICIPLES

Bản ghi chép lại do Trúc Giang thực hiện. Bài học số 133 sẽ được phát trên Hồn Việt Television trong tháng 5 năm 2012.

QUỲNH ANH:

Đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Trúc Giang và Quỳnh Anh xin kính chào quí vị.

Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại.

BBT

Hôm nay, chúng ta sẽ nói về PARTICIPLES trong tiếng Anh. Mục đích của câu chuyện hôm nay là để hai cô hiểu ý nghĩa và cách dùng của từ loại này. Thực ra, không nhất thiết phải hiểu hết ngọn ngành về PARTICIPLES. Bài học sẽ chỉ nói vừa đủ những điều cần biết về PARTICIPLES mà thôi.

QA

Thưa anh, tiếng Việt có từ loại này không?

BBT

Tiếng Việt không có PARTICIPLES vì động từ trong tiếng Việt không thay đổi theo các ngôi (PERSONS) thí dụ I GO, SHE GOES… và các thì (TENSES) THEY GO, WE WENT như trong tiếng Anh. PARTICIPLES tiếng Việt gọi là PHÂN TỪ, là tiếng được tạo thành từ một động từ.

TRÚC GIANG

Như vậy, có nhiều phân từ phải không thưa chú?

BBT

Đúng vậy. Có HAI loại phân từ, tức là hai thứ PARTICIPLES trong tiếng Anh là PRESENT PARTICIPLES và PAST PARTICIPLES. Người ta có thể nhận ra PRESENT PARTICIPLES một cách dễ dàng. Đó là khi thấy một tiếng tận cùng bằng ING thì chúng ta có thể nói chắc đó là một PRESENT PARTICIPLE, một HIỆN TẠI PHÂN TỪ. Nhưng PAST PARTICIPLES thì hơi khác. Các động từ qui tắc ( REGULAR VERBS), tức là các động từ ở thì quá khứ có cái đuôi ED thì PAST PARTICIPLES cũng tận cùng bằng ED như TO WORK, WORKED, WORKED. Nhưng các động từ bất qui tắc (IRREGULAR VERBS) thì khác, vì chúng không theo một qui luật nào hết. Thí dụ TO CUT, CUT, CUT; TO BRING, BROUGHT, BROUGHT; TO MEAN, MEANT, MEANT… vân vân.

QA

Như vậy có thể nói là khi nhìn vào danh sách các động từ bất qui tắc thì cột thứ nhất là động từ nguyên mẫu (INFINITIVE), cột thứ hai là quá khứ (PAST TENSE), và cột thứ ba là quá khứ phân từ (PAST PARTICIPLE) phải không thưa anh? Thí dụ TO EAT là INFINITIVE; ATE là quá khứ (PAST TENSE) và EATEN là quá khứ phân từ (PAST PARTICIPLE) có đúng không?

BBT

Đúng là như thế.

TRÚC GIANG

Thưa chú, trong những bài học trước đây, cháu thấy PARTICIPLES có thể xuất hiện trong những thì (TENSES) như CONTINUOUS và PERFECT.

BBT

Trúc Giang nói đúng. PRESENT PARTICIPLES được dùng với TRỢ động từ (HELPING VERB) TO BE để tạo thành các thì CONTINUOUS như WE ARE LIVING IN CALIFORNIA (PRESENT CONTINUOUS); SHE WAS WORKING FOR A HOSPITAL (PAST CONTINUOUS); và THEY WILL BE FLYING TO ENGLAND NEXT WEEK (FUTURE CONTINUOUS).

PAST PARTICIPLES khi đi cùng với trợ động từ TO BE thì chúng ta có PASSIVE VOICE tức là THỤ ĐỘNG CÁCH như HE IS LED TO HIS SEAT hay WE WERE MET AT THE DOOR, hay THEY WILL BE WELCOMED IN THIS HOUSE.

Khi PAST PARTICIPLES được dùng với động từ TO HAVE thì chúng ta có các thì PERFECT thí dụ HE HAS GONE (PRESENT PERFECT); WE HAD ARRIVED (PAST PERFECT) và THEY WILL HAVE FINISHED THE BOOK (FUTURE PERFECT).

QA

Thưa anh, ngoài ra, các PARTICIPLES còn được dùng trong những cách dùng nào khác nữa không?

BBT

Có chứ. PARTICIPLES còn có thể dùng để biến các động từ thành tĩnh từ (ADJECTIVES) để phụ nghiã, bổ nghĩa, thêm nghĩa cho danh từ. Thí dụ COOKING OIL là dầu để nấu ăn, SKIING BOOTS là giầy trượt tuyết, DRIVING GLOVES là găng tay để lái xe. Trúc Giang thử cho nghe ba thí dụ với PRESENT PARTICIPLES được dùng như tĩnh từ coi.

TRÚC GIANG

TYPING CLASS là lớp học đánh máy. SINGING VOICE là giọng hát. SPEAKING GUEST là khách được mời để nói chuyện.

QA

QA cũng có ba thí dụ: PAINTING JOB là công việc sơn nhà; MOVING VAN là xe van để dọn nhà và WALKING DISTANCE là khoảng cách có thể đi bộ được.

BBT

Nhưng có những trường hợp ý nghĩa không rõ rệt lắm như WORKING MAN chẳng hạn. Hai chữ này có thể hiểu là một người đang làm một công việc gì đó thí dụ như tấm bảng WORKING MEN AHEAD chúng ta thấy ngoài đường để báo động, tạo sự chú ý của chúng ta là phía trước có người đang làm việc như sửa ống nước, tráng nhựa đường vân vân. Nhưng WORKING MAN cũng có thể hiểu là một người làm việc để kiếm sống, thường là nghề chân tay, lao động. Trong trường hợp này, muốn làm cho rõ nghĩa, tránh hiểu lầm, muốn người nghe hiểu đây là một công nhân, làm việc lao động thì chúng ta thêm cái dấu nối (HYPHEN) vào giữa hai tiếng WORKING và MAN để thành WORKING-MAN. Hay trong trường hợp WORKING-CLASS cũng thế.

Có một số PARTICIPLES đã trở thành tĩnh từ luôn và không còn được dùng làm động từ nữa. Thí dụ A SPOILED CHILD là một đứa bé được nuông chiều thành ra hư đốn; A ROTTEN APPLE là một trái táo bị sâu; A DRUNKEN DRIVER là một người say rượu lái xe.

TRÚC GIANG

Chú nói cả hai thứ phân từ PRESENT PARTICIPLES và PAST PARTICIPLES đều có thể dùng làm tĩnh từ. Nhưng làm sao để biết lúc nào dùng PRESENT PARTICIPLES và khi nào dùng PAST PARTICIPLE làm ADJECTIVES?

BBT

Câu hỏi của Trúc Giang khó có câu trả lời dứt khoát. Nhưng có thể nói là với một chuyện, một việc, một vật đã được làm, đã hoàn tất, đã xong … thì chúng ta dùng PAST PARTICIPLES. Nếu chưa có chuyện làm xong, hoàn tất thì chúng ta dùng PRESENT PARTICIPLES.

Theo Trúc Giang thì chúng ta dùng COOKING là PRESENT PARTICIPLE hay COOKED là PAST PARTICIPLE để dùng với LESSON?

TRÚC GIANG

Cháu nghĩ là COOKING để thành COOKING LESSON thì hợp lý hơn. Không có ai nấu … bài học cả.

BBT

Thế chúng ta dùng COOKING hay COOKED với MEAL, MEAT, EGGS?

QA

Chắc chắn phải là COOKED MEAL là bữa ăn đã nấu sẵn, COOKED MEAT là thịt đã nấu chín, COOKED EGGS là trứng đã luộc.

BBT

Trúc Giang cho nghe mấy thí dụ dùng PRESENT và PAST PARTICIPLES coi.

TRÚC GIANG

Cháu có thể nói BREAKING NEWS nhưng A BROKEN HEART; A BOILING EGG là quả trứng đang luộc nhưng chưa chín và A BOILED EGG là quả trứng đã được luộc chín rồi; A BOMBING SORTIE là một phi vụ oanh tạc nhưng A BOMBED CITY là một thành phố đã bị oanh tạc tan tành.

QA

QA biết một câu dùng hai PRESENT PARTICIPLES là

A BARKING DOG NEVER BITES, A BITING DOG NEVER BARKS nghĩa là chó kêu không cắn, chó cắn không kêu. WRITING PAPER là giấy dùng để viết. A WRITTEN DOCUMENT là một tài liệu, văn kiện đã được viết xuống. A GRINDING MACHINE là cái máy xay cà phê và GROUND COFFEE là cà phê đã xay sẵn.

TRÚC GIANG

Thưa chú có khi cháu lại thấy VERB+ING được gọi là GERUND. Tại sao vậy? Khi nào VERB+ING là PRESENT PARTICIPLE và khi nào nó là GERUND?

BBT

Khi VERB+ING được dùng với TO BE để tạo thành các thì CONTINUOUS như hai cô đã đưa ra trong mấy thí dụ ở trên, thì chúng là PRESENT CONTINUOUS.

Nhưng khi VERB+ING được dùng làm chủ từ (SUBJECT), hay túc từ (OBJEC) cho động từ, nghĩa là chúng làm công việc của danh từ thì chúng là GERUND. GERUND là danh động từ, là tiếng danh từ được tạo thành từ một động từ. Vì thế, GERUNDS cũng được gọi là VERBAL NOUNS. Thí dụ khi nói WALKING IS GOOD FOR YOUR HEALTH. Trong câu này, WALKING là chủ từ của IS . Do đó, nó là GERUND. I HATE DRIVING IN THE SNOW. Trong trường hợp này, DRIVING là túc từ của HATE, nên nó cũng là GERUND.

Bây giờ tôi hỏi QA khi tôi nói HE IS FLYING TO SAN JOSE thì FLYING là loại tiếng gì?

QA

Trong câu anh vừa nói, FLYING đi với TO BE (IS) để tạo thành thì PRESENT CONTINUOUS TENSE nên nó là PRESENT PARTICIPLE.

BBT

Đúng. Thế còn THE FASTEST WAY TO SAN JOSE IS FLYING thì FLYING là loại tiếng gì, Trúc Giang?

TRÚC GIANG

FLYING là túc từ của TO BE (IS) nên FLYING trong thí dụ nay là GERUND.

BBT

Hai cô cho nghe, mỗi cô, 2 câu , sử dụng vừa PRESENT ARTICIPLE, vừa GERUND coi. Trúc Giang làm trước.

TRÚC GIANG

MISTER WATSON WAS TEACHING AT SAIGON UNIVERSITY. Trong câu này, TEACHING là PRESENT PARTICIPLE dùng với WAS để thành PAST CONTINUOUS.

TEACHING IS A VERY NICE JOB BUT TEACHING DOES NOT PAY WELL. Câu này dùng TEACHING làm chủ từ cho động từ TO BE (IS) và cũng là chủ từ của động từ DOES NOT PAY WELL nên nó là GERUND.

QA

MANY TOWNS AND CITIES NOW BAN SMOKING IN THE PUBLIC. Trong câu này, SMOKING là túc từ của động từ BAN, vì thế, SMOKING là GERUND, là danh động từ. HE IS DRINKING TOO MUCH THESE DAYS. DRINKING là PRESENT PARTICIPLE vì nó đi cùng với TO BE (IS) để thành PRESENT CONTINUOUS TENSE.

TRÚC GIANG

Thưa chú, làm sao nhớ hết được các động từ bất qui tắc?

BBT

Chỉ có một cách, đó là học thuộc lòng. Và đó là cách học ngày xưa của tôi. Nhưng ngày nay, sống ở Mỹ, trong môi trường nói tiếng Anh rồi, thì chúng ta chỉ cần nghe vài ba lần là thuộc. Không thuộc thì bị mấy con trứng ở ngay trong nhà nó nghĩ là nó khôn hơn mẹ vịt nó chữa, nó sửa cho vài lần là biết.

Tuy nhiên, có một số IRREGULAR VERBS viết thì giống nhau khi ở nguyên mẫu (INFINITIVE), quá khứ (PAST) và quá khứ phân từ (PAST PARTICIPLE) như những động từ sau đây:

TO BURST, BURST, BURST

TO CUT, CUT, CUT

TO HURT, HURT, HURT

TO LET , LET, LET

TO QUIT, QUIT, QUIT

TO READ, READ, READ

Hy vọng là với 6 động từ vừa kể, việc học PAST TENSE và PAST PARTICIPLE của hai cô sẽ dễ đi phần nào. Danh sách các động từ bất qui tắc cũng không nhiều lắm. Từ từ , cứ sống ở Mỹ, hai cô sẽ biết hết. Nhớ là chính người Mỹ nói và viết tiếng Anh cả đời vẫn còn nói sai và viết sai cơ mà. Hai cô cứ thử nghe kỹ các con cô nói mà coi. Thế nào cũng có vài ba lỗi như HE HAS BRUNG THE BOOK thay vì HE HAS BROUGHT THE BOOK.

Còn đây là lỗi người dịch. Đọc trong thực đơn một số tiệm ăn Việt ở Mỹ thế nào hai cô cũng đã thấy có món gọi là SHAKEN BEEF. Người dịch thấy món Bò Lúc Lắc liền hiểu là cầm miếng thịt bò lắc qua, lắc lại. Mà lắc qua lắc lại, lúc lắc thì tiếng Anh có động từ TO SHAKE, SHOOK, SHAKEN. Vậy thì SHAKEN BEEF là thịt bò lúc lắc chứ còn chi nữa? Một tiệm dùng nó, rồi hai tiệm, rồi các tiệm ăn sao chép lại của nhau nên thành món SHAKEN BEEF trong khi chính ra phải là DICED BEEF. DICE là quân súc sắc. Số ít của DICE là DIE. DICED BEEF là món thịt bò chiên cắt vuông, cắt quân cờ, cắt hạt lựu, như những quân súc sắc. SHAKEN BEEF nghe kỳ quá, như vừa ăn … vừa run vậy.

QUỲNH ANH

Thưa quí vị, chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến đây xin tạm chấm dứt. Chương trình sẽ trở lại vào tuần tới cùng với các chương trình khác của Hồn Việt Television. Bùi Bảo Trúc , Trúc Giang và Quỳnh Anh xin chào tạm biệt quí vị và hẹn gặp lại trong chương trình tới.