March 24, 2011

March 25, 2011

Ngày 21 tháng 3 năm 2011

Bạn ta,

André Maurois viết một loạt mấy chục bức thư cho một phụ nữ không quen biết (Lettres À L’Inconnue) đề cập đến rất nhiều chuyện, nhưng lúc nào ông cũng từ tốn nhỏ nhẹ. Đọc những bức thư Maurois viết, độc giả mường tượng ra người viết là một ông già đáng mến, bao dung và thân thiện. Còn người phụ nữ không quen biết của ông già Maurois, mặc dù độc giả không biết mặt, cũng không quen, bỗng trở thành rất quen biết, thân tình và đáng mến.

Tôi cũng có một người phụ nữ không quen biết và cũng muốn viết cho cô một bức thư nhưng mãi mà không viết được. Vì cứ ngồi xuống định viết là thấy không sao giữ được sự thân thiện như Maurois đã giữ được qua suốt mấy chục lá thư ông viết.

Cứ nghĩ đến cô, nhớ khuôn mặt của cô là lại muốn nổi điên lên. Cô không phải là người xấu. Cô có nhan sắc, quần áo đẹp, và lái một chiếc xe đắt tiền. Cô cũng lại là người nếu không đồng hương thì cũng phải là đồng bào với tôi. Vậy mà tôi không sao giữ được sự bình tĩnh khi nhớ lại lần gặp gỡ đầu tiên và duy nhất ấy.

Buổi sáng hôm đó tôi lái xe đi làm, đang chạy trên đường X. thì cô từ trong một bãi đậu xe xộc ra, xe của cô cắt ngang đầu xe của tôi. Không nhanh mắt, phản ứng chậm là hai hãng bảo hiểm lại phải liên lạc với nhau để giàn xếp ổn thỏa cho chuyện chúng tôi gặp gỡ. Tôi thấy cô rất bình tĩnh sau đó. Cô không thèm ngó lại, hay tỏ ra một cử chỉ gì, dẫu cho rất nhỏ cho thấy cô suýt gây tai nạn cho tôi trong khi cô hoàn toàn có lỗi. Cô từ trong bãi đậu xe chạy ra, không thèm dừng lại, ngó những xe khác. Cô chạy vọt ra, cắt ngang dòng xe và chỉ một chút là đụng vào xe của tôi.

Tôi lái tiếp, theo sau xe cô, xem cô còn tiếp tục lái xe kiểu ngang ngược như thế nữa hay không. Tôi giữ một khoảng cách an toàn và trên một đoạn đường không dài lắm, tôi thấy cô lái xe khác hẳn cách lái mà cô lái khi thi để lấy bằng của tiểu bang California hay bất cứ một một tiểu bang nào khác.

tail gate xe trước, đi sát một chiếc Camry, chỉ chừa một khoảng cách chừng hai mét. Cô có vẻ đang vội vàng đi đâu không biết. Chiếc điện thoại áp vào tai. Cô tiếp tục nói chuyện bằng điện thoại. Người lái xe trước cô phải nhường cô, đổi sang một lane khác cho cô vọt lên. Không một cái vẫy tay cám ơn. Đến ngã tư, cô lại lái sát một chiếc xe trước và khi đèn xanh, cô thình lình quẹo phải. Chiếc xe cô lái còn mới nên không thể nói những chiếc đèn signal để ra hiệu quẹo phải quẹo trái bị hư. Chắc cô không thích đụng tay vào nó thôi. Tới một ngã tư sau đó, đèn đỏ cô phải ngừng lại. Tôi đổi lane để quẹo trái, và xe của hai chúng tôi đậu sát nhau. Cô ngó sang tôi. Hình như cô nhận ra tôi là người vừa bị cô cắt ngang trên đường X. Cô lầu bầu nói gì tôi nghe không được. Nhưng đó không phải là chi tiết quan trọng. Tôi hạ kính xe nói với cô: "Use your turning signals, will you!"

Và điều cô đáp lại khiến tôi rùng mình. Cô nói khá lớn "F… you!"

Chao ơi, hồi còn trai trẻ, sức còn hăng sao không ai mời tôi làm việc đó. Bây giờ già yếu, thân tàn ma dại thì mời nhau một … cái ngay giữa đường. Nghĩ đến chuyện làm việc ấy với cô tôi nhớ một câu của ca sĩ K.L., câu nói nguyên văn tôi không thể nhắc lại đúng từng chữ ở đây: "Tránh cái thứ ấy ra nghe ông… ấy (?) nó là chỉ bẩn (cái ấy) ra mà thôi!"

Cô rơi đúng vào trường hợp ấy. Thân mình là trọng. Chịu khó giữ cho sạch một chút. Thôi, không bõ đâu.

Con cái nhà ai mà mất dậy đến là như thế. Tôi chợt nhớ đến cái nghĩa địa xe cách đây mấy tháng có đi theo một người bạn kiếm mua một món phụ tùng xe. Trong những chiếc xe nằm ngổn ngang trong nghĩa địa bi đụng tan nát có một chiếc giống hệt chiếc xe của cô lái. Ghế trước còn nguyên những vết máu khô.

Lái xe như cô chắc thế nào cũng có ngày chiếc xe của cô vào nằm trong nghĩa địa cho có đôi.

Mà cô thì cũng không còn có thể làm … bẩn (?) người khác được nữa.


Ngày 22 tháng 3năm 2011

Bạn ta,

Bản tin của AP phổ biến trong ngày hôm qua, 21 tháng 3 có tường thuật một vụ cảnh sát bắt bạch phiến làm những nghi ngờ của tôi từ mấy chục năm nay bỗng nhiên tan biến hết.

Tin AP viết rằng cảnh sát Pennsylvania hôm cuối tuần qua có chặn một phụ nữ trong một tai nạn xe hơi. Tại nơi xẩy ra tai nạn, cảnh sát tìm thấy mấy gói bạch phiến trong túi áo của cô. Người phụ nữ 27 tuổi này cho biết cô còn mang trong (?) người một số bạch phiến khác. Cảnh sát quyết định đưa cô về trụ sở để điều tra thêm.

Cảnh sát được cô cho biết còn dấu một số bạch phiến khác trong người nên đã phải mời một y sĩ đến khám vì các nữ cảnh sát viên có thể không đủ kinh nghiệm hay khả năng, hiễu biết (về cơ thể học) để khám những trường hợp như thế.

Đây chắc không phải la trường hợp nuốt bạch phiến vào người để qua mặt nhà chức trách. Nếu làm vậy, chỉ cần đưa cô vào một căn phòng nhỏ có tiện nghi giúp làm sạch ruột những người nuốt ma túy vào người: một chiếc bồn cầu làm bằng plastic trong suốt. Ngồi ở đó vài ba phút, tặng không cho hai ba cục suppository để giúp cho đường xá (?) trơn tru là xong ngay. Cảnh sát hay nhân viên bài trừ ma túy khều ra túi nọ bịch kia dễ ợt như trong một bài báo của tờ National Geographic mấy năm trước.

Nhưng người phụ nữ ở Pennsylvania chắc không dấu theo lối thông thường đó nên cảnh sát mới phải nhờ một y sỹ đến khám giùm.

Một hồi sau, người ta lấy từ một nơi rất kín đáo của cô hơn 50 túi plastic đựng bạch phiến, 31 bao plastic chưa dùng và 51 đô la 22 xu.

Một câu thơ của Hồ Xuân Hương, câu " một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa…", câu thơ làm cả bọn học trò đệ tứ lúc ấy thắc mắc và không tin có thể xẩy ra chuyện ấy bỗng không còn là điều nghi ngờ của tôi nữa. Bỏ được bằng ấy thứ vào trong thì Hồ Xuân Hương nói thật chứ không hăm dọa (?) ai hết.

Tôi đã trông thấy những cái bao plastic đựng bạch phiến. Hơn 50 cái bao ấy chiếm rất nhiều chỗ. Lại thêm 31 cái bao chưa dùng thì lại cần thêm chỗ (?) mới đủ. Nhưng cảnh sát cho biết ngoài những bao, những túi plastic đó, ông y sĩ còn tìm được 51 đô la 22 xu. Nhà chức trách không cho biết số tiền này như thế nào, mấy tờ tiền giấy… một tờ 50 hay 2 tờ 20, một tờ 10 đồng, một tờ 1 đồng hay … tất cả đều là giấy 1 đồng cả?

Tuy nhiên cái số tiền 22 xu lẻ mới khó hiểu. Không thể là một đồng quarter được. Một quarter là 25 xu. Nhưng đây là 22 xu. Có thể nào là 22 đồng xu đỏ có hình ông Lincoln hay 2 đồng dime có hình ông Roosevelt, hay bốn đồng nickel và 2 đồng xu đỏ?

Những đồng tiền kim khí này rất nặng. Làm sao bỏ vô rồi lại đi đứng … ngon lành như cô được?

Đọc bản tin về cô, người ta bỗng thấy những chữ "đồng tiền nhơ bẩn" bỗng nghe rất có lý. Tưởng tượng nàng đi shopping hay mời chàng đi ăn. Ăn xong, nàng loay hoay, vặn người mấy cái, tiền bạc rơi rớt rổn rảng. Nàng nhặt lên trả tiền cho bữa ăn của hai người thì bữa ăn liệu có còn ngon không?

Tôi nhớ tới ông cụ hàng xóm ở Hà Nội mà mấy ông chú kể lại một bữa cụ được một thanh niên đang rượt cô con gái xinh đẹp của cụ mời cả nhà đi ăn. Cuối bữa, cụ đứng dậy mắng cho người thanh niên một trận, cấm không được héo lánh tới nhà cụ nữa chỉ vì chàng thò tay ra túi sau lấy cái ví ra trả tiền bữa ăn. Cụ nhìn thấy và coi đó là hành động vô lễ vì "nó dám móc tiền trong đít ra mời tao ăn cơm".

May mà cụ chết đã lâu, không biết còn những chỗ khác để bỏ tiền chứ cái túi quần sau thì đã nhằm nhò gì.


Ngày 23 tháng 3 năm 2011

Bạn ta,

Trưa nay tôi đi ăn ở một quán Đại Hàn chuyên nấu các món đậu phụ. Tôi nhận ra một điều: bữa ăn không ngon. Dở là đằng khác.

Tôi thấy cách nấu của tiệm không có gì khác với những lần trước. Các thực khách khác trong tiệm có vẻ không có điều gì phiền trách nhà hàng. Tất cả đều ăn uống vui vẻ. Nhưng bữa ăn trưa hôm nay với tôi quả là không ngon.

Thì vẫn những đĩa kim chi, dưa chuột muối ớt, giá bỏ chung vào kim chi cay xé lưỡi. Nhưng không ngon.

Hồi sau, hình như tôi thấy ra lý do. Đó là những chiếc đũa. Mấy lần đến ăn ở tiệm trước đây, tiệm dùng những đôi đũa bằng nhôm, không dùng đũa tre như trưa hôm nay. Đũa Nhật và đũa Đại Hàn ngắn hơn đũa của Trung Hoa và Việt Nam. Điều đó ai đi ăn tại các tiệm Nhật và Đại Hàn đều thấy. Không có gì để phàn nàn cả. Nhưng đôi đũa mà tiệm mang ra cho tôi trưa nay thì, theo tôi, đã khiến cho bữa ăn bớt ngon đi rất nhiều.

Nghĩ lại thấy con người ta cũng kỳ. Thứ nào phải ra thứ ấy. Đôi đũa tre ở tiệm ăn Đại Hàn làm cho bữa ăn bớt ngon. Mà phải đâu thực khách ăn luôn những đôi đũa ấy.

Chúng được gói trong bao giấy. Hai chiếc đũa vẫn còn dính vào nhau để bảo đảm cho khách biết là chưa ai dùng nó. Như vậy là an toàn. Nhớ lại những đôi đũa tre ở những xe bò khô vài ba chục năm trước mà kinh. Đầu đũa đen kịt vì đã ngấm bao nhiêu tương đen, xì dầu, tương ớt, và nhất định thêm luôn cả nước bọt của cả trăm, cả ngàn khách hàng. Nhưng chúng tôi không than phiền gì hết. Vẫn thưởng thức tận tình những đĩa bò khô ở cổng trường.

Nhưng đôi dũa tre ở tiệm Đại Hàn tại sao lại làm cho bữa trưa của tôi kém ngon đi? Có phải tôi bỗng dưng trở thành khó tính không?

Chắc là không. Ăn phở không thể dùng những cái muỗng ăn súp trong bộ dao nĩa ở nhà được. Những cái muỗng ấy có sang, có đẹp cách mấy vẫn không thể dùng để ăn phở được. Phải là những cái muỗng mang cái tên khá lạ lùng: muỗng cao lầu mới được. Bất cứ thứ muỗng nào khác đều không được. Tô phở sẽ bớt ngon đi ngay.

Ly cà phê sữa đá phải uống từ một cái ly thủy tinh. Ly sứ không được. Nhưng cà phê đen nóng hay cà phê sữa nóng thì phải uống bằng ly sứ. Không thể quấy đường trong ly cà phê bằng những cái muỗng cao lầu được. Phải là cái muỗng nhỏ bằng kim loại. Tô đậu hũ nước đường phải dùng một loại muỗng có cạnh mỏng để cắt vụn những miếng đậu hũ ra. Bia lạnh phải uống bằng ly thủy tinh. Không bao giờ uống bia bằng ống hút, mà cũng không bao giờ dùng muỗng để uống bia. Rượu đỏ không thể uống bằng ly … mủ, ly sứ, hay bằng bát ăn cơm.

Thế nên đôi đũa tre ở tiệm ăn Đại Hàn bỗng trở thành vô duyên tận mạng. Người đàn ông ngẩn ngơ với đôi đũa tre đã làm mất đi sự ngon miệng của bữa trưa bỗng có cảm tưởng mình là người khó tính.

Nhưng chắc không phải là như vậy. Đức Khổng Tử dậy mọi việc phải chính danh mới được. Chiếc chiếu trải không ngay ngắn thì không ngồi. Bữa trưa với đôi đũa tre ngắn ngủn, nhẹ tênh vẫn còn những cái sơ của tre thì làm sao ngon cho được. Mà cầm hai chiếc đũa cọ vào nhau một lúc cho đầu đũa, thân đũa nhẵn nhụi một chút thì còn đâu là nét văn vẻ của người … cố đô nữa.

Bởi thế nên bữa trưa ở tiệm đậu hũ Đại Hàn mới bớt ngon đi là như thế.


Ngày 24 tháng 3 năm 2011

Bạn ta,

Tôi không biết làm sao dịch cho hay và cho sát câu tục ngữ Ăng lê này: A friend in need is a friend indeed. Có được một người bạn vào lúc cần, trong lúc khó khăn thì người ấy chính là người bạn đích thực của mình vậy.

Ý có thể đúng và sát. Nhưng không vần như câu tiếng Anh. In needindeed thì vần không chạy vào đâu được.

Nhưng trong đời sống, thường thì ít khi có được những người bạn như thế.

Nhiều khi vừa thấy khó, những thứ bạn ấy lỉnh ra xa ngay, nhất định không đến gần, nói chi đến chuyện đưa tay ra giúp chúng ta bao giờ.

Nước Mỹ thật tội nghiệp. Tử tế với bạn bè như thế mà bạn bè cũng ít khi đối xử lại tử tế. Mà đau một điều là những xứ mà Hoa kỳ giúp đỡ nhiều nhất thì trong những lúc ấy, lại bầy ra những bộ mặt xấu xa nhất.

Trong cuộc chiến ở Iraq, người ta thấy một số nước mà Hoa kỳ đối xử cũng tử tế vừa phải thôi thì lại ủng hộ nước Mỹ hết mình.

Trong liên minh đa quốc tham chiến tại Iraq, người ta thấy có binh sĩ của Honduras, khoảng trên một trăm người. Ngay cả các nước như Georgia, Azerbaijan, Uzbekistan … những nước trước đây nằm trong liên bang Sô Viết cũng gửi những lực lượng tượng trưng đến Iraq để chiến đấu cạnh Hoa kỳ cho Hoa kỳ có được thêm phần chính nghĩa. Nhật Bản không được phép đưa binh sĩ tác chiến ra hải ngoại thì đóng góp một số công binh và phi cơ vận tải. Anh, Pháp, Ý, Ba Lan, Đức … thì không kể. Đó là những đồng minh đã giúp Hoa kỳ rất nhiều.

Nhưng có một nước được hưởng rất nhiều trợ giúp của Hoa kỳ thì không hề đóng góp gì cho những việc làm của Hoa kỳ. Trái lại còn thỉnh thoảng lên tiếng chỉ trích gay gắt những việc làm của nước Mỹ.

Đó là Mexico, quốc gia nằm sát cạnh Hoa kỳ, quốc gia được hưởng rất nhiều lợi lộc qua những liên hệ, với Hoa kỳ. Kỹ nghệ Hoa kỳ chuyển nhiều nhà máy sang Mexico, tạo công ăn việc làm cho dân Mexico. Người Mỹ chi rất nhiều tiền để du lịch tại Mexico. Người dân Mexico bỏ trốn sang Hoa kỳ sinh sống kiếm tiền gửi về cho gia đình mỗi năm nhiều tỉ đô la.

Nhưng cách đối xử của Mexico dành cho Hoa kỳ là cách đối xử không tốt đẹp gì.

Mexico không hề nhấc một nón tay để giúp Hoa kỳ trong các hoạt động của Hoa kỳ tại Afghanistan và Iraq. Thay vì ủng hộ Hoa kỳ, dẫu bằng vài ba việc làm tượng trưng, vài ba trăm binh sĩ, một hai vận tải cơ, thì Mexico không hề làm bất cứ gì mà còn quay ra chỉ trích Hoa kỳ không ít.

Tổng thống Mexico, và luôn cả chính phủ của ông đã nhiều lần lên tiếng can thiệp vào các việc làm của nước Mỹ, của các tiểu bang Hoa kỳ nếu Hoa kỳ hay các tiểu bang này đụng chạm nhẹ tới những người dân Mexico ùn ùn kéo sang Mỹ ở lậu.

Thay vì tìm cách khuyến khích người dân Mexico ở lại xây dựng đất nước, không tha phương cầu thực để làm mất phẩm giá của đất nước và con người Mexico thì các nhà lãnh đạo Mexico đòi Hoa kỳ phải làm việc này, việc kia để trợ giúp cho các công dân Mexico chạy sang Mỹ kiếm sống.

Tổng thống Mexico nào mới lên cũng chạy sang Mỹ đòi chính phủ Mỹ làm đủ mọi chuyện cho Mexico. Ngay cả người đã rời chức cũng sang Hoa kỳ để có ý kiến về luật di trú như ông Vicente Fox đã làm.

Có một người láng giềng như thế thì phiền thật. Vậy thì còn cần chi kẻ thù ở bên cạnh nữa.

Tới hôm nay, trong vụ Libya, người ta vẫn chưa thấy bàn tay giúp đỡ nào của Mexico.

Nhưng chờ đợi như vậy có phải là hy vọng hão huyền không?


ANH NGỮ TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


QUỲNH ANH

Kính thưa quí vị, đây là chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày do Bùi Bảo Trúc phụ trách. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh và xin kính chào quí vị.

Chương trình đến với quí vị hàng tuần để ôn lại một số điều liên quan đến Anh ngữ mà quí vị gặp trong đời sống. Quí vị có thắc mắc xin liên lạc với Hồn Việt TV nhờ chuyển lại cho chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày.

Tuần này, QA biết là Thúy nhận được thư của một khán giả của chương trình tiếng Anh. Thúy cho biết thắc mắc của khán giả có giống như thắc mắc của Thúy và QA không?

LÃM THÚY

Thưa thầy Trúc, thư của bà Lê Tiến Ngọc Sơn ở Garden Grove nhờ chương trình giúp làm sao dùng đúng những chữ mà bà thấy rất giống nhau là VERY, SO và TOO. Thúy thấy đó cũng chính là những thắc mắc của Thúy, vậy xin thầy giảng những chữ vừa kể trong bài hôm nay.

QA

Và đó cũng là thắc mắc của QA. QA thấy tất cả đều là những tiếng chỉ những điều khác thường, không bình thường nhưng không biết dùng thế nào cho đúng.

BBT

Trước hết, để tôi nói về chữ VERY đã. Đây là tiếng chúng ta gặp rất nhiều, dùng rất nhiều và cũng không khó lắm.

VERY có thể là một tĩnh từ (ADJECTIVE) phụ nghĩa cho một danh từ, và cũng còn là một trạng từ (ADVERB) để phụ nghĩa cho một tĩnh từ.

Khi VERY là tĩnh từ, nó có nghĩa là ngay, chính, đúng, theo sau là một danh từ.

Thí dụ: IN THIS VERY PLACE nghĩa là ngay tại chỗ này.

ON THIS VERY DAY là ngay vào ngày hôm đó.

THE VERY WORDS HE USED là nguyên văn, đúng những điều ông ta nói.

THE VERY THOUGHT OF YOU, tên một ca khúc của Nat King Cole nghĩa là chỉ ý nghĩ về em, chỉ nghĩ về em là tôi đã … vân vân.

LÃM THÚY

THAT IS THE VERY GRAMMAR POINT WE WANT TO LEARN TODAY

QA

Đó là chính điểm văn phạm mà chúng ta muốn học trong bài hôm nay.

BBT

Cám ơn hai cô. Như vậy là hai cô đã hiểu nghĩa của VERY khi nó là tĩnh từ. Bây giờ chuyển qua VERY khi nó được dùng làm ADVERB, khi nó là trạng từ.

Như hai cô đã biết, TRẠNG TỪ là tiếng phụ nghĩa, nói thêm về 1 động từ để làm cho rõ thêm về động từ đó. HE SPEAKS SPANISH FLUENTLY. Chữ FLUENTLY là trạng từ, nghĩa là lưu loát. Anh ấy nói tiếng Tây Ban Nha như thế nào? Anh ấy nói FLUENTLY nghĩa là anh ấy nói tiếng Tây Ban Nha lưu loát.

VERY khi là trạng từ, nó phụ nghĩa cho tĩnh từ.

HE IS OLD nghĩa là ông ấy già. Hơi già, già vừa vừa, già lắm. Hơi hơi, vừa vừa, lắm lắm là trạng từ phụ nghĩa cho tĩnh từ già. HE IS A BIT OLD. HE IS SOMEWHAT OLD. HE IS VERY OLD.

Sau khi nói xong, chúng ta có thể bỏ đi, không có ai chạy theo nắm áo hỏi còn nói gì nữa hay không. Chúng ta không nói thêm nữa vì như thế đủ rồi. Đó là VERY.

QA

Tại sao anh phải nêu ra chi tiết đó?

BBT

Lý do là vì tôi muốn nói qua những chữ khác như SO, SUCH và TOO. Sau VERY, ngưng cũng được, mà nói thêm cũng không sao.

Thí dụ THE BOOK IS VERY DIFFICULT. Nói xong thì ngưng cũng được. Nói thêm I HAD TO READ IT TWICE nghĩa là tôi phải đọc hai lần mới hiểu hết. Không nói thêm, người nghe vẫn hiểu.

Nhưng với SO thì hơi khác. SO cũng là một ADVERB, một trạng từ.

Thí dụ IT IS SO HOT nghĩa là trời nóng quá.

LÃM THÚY

Thúy thấy câu anh vừa nói có vẻ như còn thiêu thiếu cái gì chứ chưa đủ phải không QA?

QA

QA cũng thấy như thế. IT IS VERY HOT là trời rất nóng. Nhưng IT IS SO HOT, nghĩa là trời quá nóng. QA nghĩ nói như vậy chưa đủ. QA thấy phải nói thêm gì sau câu đó. Thí dụ trời quá nóng, QA phải vặn máy lạnh lên. Hay trời quá nóng, thành phố kéo hết ra biển. Quyển sách quá dài phải đọc một tuần mới hết.

BBT

Đúng là như thế. IT IS SO HOT. I HAVE TO TURN ON THE AIR CONDITIONER.

LÃM THÚY

IT IS SO HOT. EVERYBODY GOES TO THE BEACH.

QA

THE BOOK IS SO LONG. I FINISH IT IN ONE WEEK.

BBT

Hai cô nói rất đúng. Bây giờ tôi nhắc thêm cho hai cô một điều nữa. Hai cô vừa dùng HAI câu để nói cho hết ý. Nhưng chúng ta có thể nối hai câu lại với nhau bằng THAT để thành một câu với nghĩa QUÁ … ĐẾN NỖI. Đó là cách đặt câu SO … THAT.

Bây giờ tôi nhờ hai cô nối mấy câu hồi nẫy vào với nhau coi.

QA

IT IS SO HOT. I HAVE TO TURN ON THE AIR CONDITIONER. Trời nóng. Tôi phải mở máy lạnh.

Đổi thành IT IS SO HOT THAT I HAVE TO TURN ON THE AIR CONDITIONER. Trời quá nóng đến nỗi tôi phải mở máy lạnh.

LÃM THÚY

IT IS SO HOT. EVERYBODY GOES TO THE BEACH. Trời nóng quá. Mọi người ra biển.

IT IS SO HOT THAT EVERYBODY GOES TO THE BEACH.

BBT

Như vậy, hai cô đã hiểu cách nói những câu SO… THAT, nghĩa là quá đến nỗi. Nhưng nhớ là khi nói, phải nhấn mạnh vào SO và THAT cũng như khi nói tiếng Việt, chúng ta cũng phải nhấn và những chữ QUÁ và ĐẾN NỖI thì mới diễn được ý nghĩa của câu.

Bây giờ chúng ta chuyển qua chữ TOO.

TOO là một TRẠNG TỪ.

TOO có nghĩa là CŨNG như hai cô đã biết. TOO cũng đồng nghĩa với ALSO. Thí dụ nói THÚY LIVED IN SAIGON AND I LIVED IN SAIGON TOO/ ALSO.

QUỲNH ANH SPEAKS VIETNAMESE WITH SOUTHERN ACCENT AND I DO TOO/ ALSO.

Một cách dùng TOO thông tục hơn là ME TOO. Trong một lần khác tôi sẽ nói về ME TOO.

Nhưng khi TOO có nghĩa là quá thì cách dùng nó khác. TOO trong trường hợp này có nghĩa là quá mức, quá độ …

TOO YOUNG là quá trẻ như bài hát TOO YOUNG của Nat King Cole.

Sau TOO chúng ta dùng tĩnh từ ADJECTIVE.

Hai cô cho tôi nghe vài thí dụ với TOO. Quỳnh Anh …

QA

THE HOUSE IS TOO LARGE / EXPENSIVE/ FAR FROM LITTLE SAIGON / ISOLATED / SMALL…

LÃM THÚY

THE JOB IS TOO DIFFICULT. THE BOY IS TOO HEAVY. LIFE IS TOO SHORT.

BBT

Bây giờ chúng ta chuyển qua cách đặt câu khá đặc biệt với TOO.

Có hai kiểu câu với TOO. Điều đáng ghi nhớ ở đây là cả hai đều có nghĩa phủ định mặc dù chúng ta không thấy một chữ phủ định nào.

Trước hết là câu TOO … FOR. Sau FOR chúng ta dùng một DANH TỪ hay một ĐẠI DANH TỪ.

Thí dụ: THE HOUSE IS TOO LARGE FOR … Cô QA cho thêm một tiếng danh từ vào sau coi.

QA

THE RING IS TOO BIG FOR MY FINGER

LÃM THÚY

THIS APARTMENT IS TOO EXPENSIVE FOR A COLLEGE STUDENT

BBT

Bây giờ hai cô cho một đại danh từ vào cuối coi.

QA

WINTER IN ALASKA IS TOO COLD FOR HIM

LÃM THÚY

THAI FOOD IS TOO HOT FOR ME

BBT

Hai cô đã hấy đặc điểm của những câu này chưa?

QA

QA thấy là tất cả đều có nghĩa NEGATIVE, nghĩa phủ định ở trong. WINTER IN ALSAKA IS TOO COLD FOR HIM nghĩa là mùa đông tại Alaska thì quá lạnh đối với anh ấy. Câu này không nói rõ nhưng nghe là hiểu ngay có nghĩa phủ định ở trong. Alaska quá lạnh với anh ấy nên anh ấy KHÔNG thích sống ở đó, anh ấy KHÔNG thích đi du lịch ở đó, anh ấy KHÔNG thích mua nhà, đi học, kiếm việc ở đó. Tất cả đều có nghĩa KHÔNG ở trong.

LÃM THÚY

Câu của Thúy là THAI FOOD IS TOO HOT FOR ME nghĩa là cơm Thái quá cay đối với tôi. Quá cay nên tôi không thích, không ăn hết, không trở lại nữa.

BBT

Đúng rồi. Nhưng như hai cô vừa nói, Alaska quá lạnh vói ông ấy. Cơm Thái quá cay với tôi. Nghe vậy, tôi không biết quá lạnh nên ông ấy không thích, hay không sống ở đó nữa, hay không muốn kiếm việc ở đó. Cô Thúy thì nói cơm Thái quá cay với cô. Nhưng tôi không hiểu vì quá cay cô không trở lại nữa hay không ăn tiếp, hay là không trả tiền. Người nghe không biết được cô làm gì. Bây giờ tôi chỉ hai cô thêm một khúc dưới người nghe sẽ hiểu hai cô chính xác hơn.

Hai cô chỉ thêm vào cuối một động từ NGUYÊN MẪU CÓ TO (INFINITIVE WITH TO) là rõ nghĩa ngay.

Thí dụ câu của QA là ALSAKA IS TOO COLD FOR HIM, chúng ta chỉ cần thêm TO + VERB là rõ ngay, là hiểu ông ta sẽ không làm gì ngay. Cô QA thử thêm vào một động từ coi.

QA

Thí dụ QA nói Alaska quá lạnh để cho ông ấy đi bơi thì QA sẽ nói thế này: ALASKA IS TOO COLD FOR HIM TO GO SWIMMING. Hay ALASKA IS TOO COLD FOR HER TO GO OUT WEARING ONLY A T-SHIRT. Hay ALASKA IS TOO COLD FOR US TO WALK WITHOUT SHOES.

LÃM THÚY

THAI FOOD IS TOO HOT FOR ME TO FINISH THE MEAL.

IT IS TOO EARLY FOR YOU TO GO HOME NOW.

THE CAR IS TOO EXPENSIVE FOR THEM TO PAY CASH.

HE IS TOO YOUNG TO GROW A BEARD

THEY ARE TOO BUSY TO ANSWER ALL THE LETTERS

BBT

Không biết hai cô đã nghe câu này chưa? Tôi chắc đã sống ở Mỹ thì thế nào cũng phải nghe người ta nói vài lần. Đó là câu IT IS TOO GOOD TO BE TRUE, hay TOO GOOD TO BE TRUE.

LÃM THÚY

IT IS TO GOOD TO BE TRUE là quá tốt để có thể là sự thật. Thúy nghĩ là câu này được dùng để nói về một chuyện gì đó, nghe như truyện cổ tích thần tiên, chỉ có trong trí tưởng tượng, không bao giờ có thể có được trong cuộc đời này.

BBT

Chẳng hạn như thế nào cô QA?

QA

Thí dụ QA bữa nọ nghe có một công việc ở Úc trả 100 ngàn đô la trong 6 tháng, được cho ở 1 căn nhà nhìn xuống biển, mỗi ngày ra bãi biển đi bộ, đi câu, đi bơi, về viết mấy dòng về hòn đảo nhỏ đó. QA liền nghĩ ngay IT IS TOO GOOD TO BE TRUE.

BBT

Đúng rồi. Hay những hứa hẹn, cam đoan mua bộ sách dậy tiếng Anh về học ở nhà trong 3 tháng sẽ nói được tiếng Anh lưu loát như hoàng tử nước Anh, hay mua cái máy tập thể dục chỉ mất hai tháng xuống 60 pounds. Tất cả nghe xong đều có thể dùng câu TOO GOOD TO BE TRUE.

QA

Bây giờ QA có một thắc mắc khác, đó là khi nào dùng EACH OTHER và khi nào dùng ONE ANOTHER. Văn phạm gọi những tiếng này là gì? QA biết chúng là đại danh từ dùng làm túc từ cho động từ.

BBT

Đó là HỖ TƯƠNG ĐẠI DANH TỪ tiếng Anh gọi là RECIPROCAL PRONOUNS. Hỗ tương là lẫn nhau, là nhau, là có qua lại giữa hai bên. Có hai đại danh từ hỗ tương là EACH OTHER và ONE ANOTHER

EACH OTHER dùng khi có HAI người. ONE ANOTHER dùng cho BA người trở lên.

Khi nói THEY HELP EACH OTHER, không cần phải nói HAI NGƯỜI, HAI ANH EM, HAI NGƯỜI BẠN, HAI ÔNG LÁNG GIỀNG chúng ta biết ngay là chỉ có HAI người mà thôi.

Thúy cho nghe 1 thí dụ với EACH OTHER coi.

LÃM THÚY

WE SAT NEXT TO EACH OTHER IN SCHOOL FOR 7 YEARS.

WE HELPED EACH OTHER A LOT AFTER THE FALL OF SAIGON.

WE FOUND EACH OTHER AGAIN IN CALIFORNIA.

BBT

Hay lắm. Thế còn QA?

QA

QA nhắc các con YOU MUST LOVE EACH OTHER. MY SISTER AND I SEE EACH OTHER EVERY WEEK-END.

WE SPEAK TO EACH OTHER BY PHONE EVERY NIGHT.

BBT

Trong khi đó, ONE ANOTHER là đại danh từ dùng cho BA người trở lên. Cô QA, cô thấy câu này thế nào: JOHN AND MARY LOVE ONE ANOTHER.

QA

Ông thầy vừa dậy ONE ANOTHER dùng cho BA người trở lên vậy thì câu này sai. JOHN và MARY là HAI người. Không dùng ONE ANOTHER được. Phải dùng EACH OTHER. Phải nói là JOHN AND MARY LOVE EACH OTHER.

BBT

Đố cô Thúy câu này nghĩa là gì

JUST LIKE THE CREPE COVERS THE MIRROR

PEOPLE OF THE SAME COUNTRY MUST LOVE ONE ANOTHER

LÃM THÚY

Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

QA

Cám ơn thầy Trúc. Chương trình Anh Ngữ Trong Đời Sống Hàng Ngày đến đây tạm chấm dứt. Bùi Bảo Trúc, Lãm Thúy và Quỳnh Anh xin cảm ơn sự theo dõi của quí vị và xin hẹn gặp lại quí khán giả trong chương trình tuần tới.